Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những tài sản của Phật giáo Tây Tạng

19/01/201105:56(Xem: 11297)
Những tài sản của Phật giáo Tây Tạng

TRÍHUỆVÀ ĐẠI BI

TenzinGyatso Dalai Lama thứ 14
Nguyêntác:Kindness, Clarity and Insight, Snow Lion Publications Ithaca NewYork USA 1990
BảndịchViệt: Thiện Tri Thức 2000 PL. 2543
 
NHỮNGTÀI SẢN
CỦAPHẬT GIÁO TÂY TẠNG*

Đểđịnh nghĩa ngắn gọn Phật giáo Tây Tạng, tôi sẽ nói rằngnó là nơi ký thác toàn bộ những thực hành đã được truyềnbá bởi đạo Phật trong sự chính thống và toàn thể củachúng.

Nóbao gồm, như các bạn biết, cái mà người ta gọi là Tiểuthừa và Đại thừa, mà người ta cũng đặt tên là Thanh Vănthừa và Bồ Tát thừa. Bồ Tát thừa chia thành thừa củanhững Ba la mật và thừa của thần chú bí mật hay tantra.

Hìnhthức Phật giáo được thực hành ở Tích Lan, Miến Điệnvà Thái Lan là Theravada, một trong bốn nhánh lớn của trườngphái Đại Chú Giải (Vaibhashika), trường phái giáo thuyếtcủa Tiểu thừa. Mahasamghika, Sarvastivada, Sammitiya và Sthaviravadahay Theravada là tên của bốn nhánh này. Ở Tây Tạng, chúngtôi nhận sự truyền giới từ dòng của một trong bốn phái,là phái Sarvastivada nằm trong trường phái Đại Chú Giải.

Vìchia thành bốn phái, những nhà Theravada tuân thủ 227 giớiluật, trong khi chúng tôi là 253. Những hệ thống của chúngtôi đồng nhất với những sắc thái này, bởi vì cả haitheo những giáo huấn của Tiểu thừa. Thế nên chúng tôi cóthể nói rằng trong Phật giáo Tây Tạng, chúng tôi áp dụngnhững giới luật tu viện của Tiểu thừa đối với tấtcả những gì liên hệ đến những sinh hoạt giới luật, đếnnhững thệ nguyện giữ gìn giới luật qua những nghi thứcmà sự thi hành cho phép tôn trọng những thệ nguyện này.

Thêmnữa, chúng tôi thực hành những phương pháp thiền địnhdẫn đến đại định (samadhi), những cái mà Vasu-bandhu diễntả trong Những kho tàng của hiểu biết (A tỳ đạt ma CâuXá Luận) – chắc chắn thuộc về Tiểu thừa – cũng nhưba mươi bảy phẩm trợ đạo, điểm trung tâm quanh đó tạothành con đường Tiểu thừa : những thực hành người TâyTạng theo phù hợp với những gì các nhà Theravada thuyết giảng.

Nhữnggiáo lý của Đại thừa phổ biến rộng rãi, chinh phục TrungHoa, Nhật Bản, Triều Tiên và một vài vùng của Đông Dương.Chúng được xây dựng trên những kinh điển đặc biệt nhưTâm kinh hay kinh Pháp Hoa, là những bản văn của Bồ Tát thừa.Toàn thể kinh sách của Đại thừa đặt nền trên sự thứctỉnh về nguyện vọng vị tha nhắm đến Phật tánh và trênsự thực hành sáu hoàn thiện (sáu ba la mật) đi kèm.

Liênhệ đến cái nhìn về tánh Không, có hai trường phái tư tưởngtrong lòng Đại thừa : trường phái Duy Thức (Chit-tamatra) vàtrường phái Trung Đạo (Madhyamika), những phương pháp củachúng đặt nền tảng trên trí huệ và đại bi, cũng đượcáp dụng với hình thức đầy đủ của chúng trong Phật giáoTây Tạng.

VềMật Chú thừa – hay tantra thừa – quả là giáo lý của nóđã được truyền bá ở Trung Hoa và Nhật Bản, nhưng bốnloại tạo thành toàn bộ phương pháp luận của nó, tức lànhững tantra hoạt động, tantra thực hiện, yoga tantra và tantrayoga tối thượng, thì chỉ có ba loại được truyền bá trongcác xứ ấy.

Tantrayoga tối thượng hình như không được truyền đến, mặcdù có thể có vài trường hợp riêng lẻ thực hành bí mật.Trong những cái được đem vào Tây Tạng, ngoài yoga hoạt động,yoga thực hiện và yoga tantra, còn có nhiều tantra thuộc loạitối thượng.

Vậythì sự thực hành của Tây Tạng bao gồm mọi phương phápcủa cả ba thừa Phật giáo. Toàn bộ những kỹ thuật nàycho phép liên kết sự thực hành Kinh giáo và Mật giáo đểtruyền rộng từ Tây Tạng đến những vùng Mông Cổ, NộiMông và Ngoại Mông, những người kalmouk… Chúng cũng xâmchiếm những vùng Hy Mã Lạp Sơn của Népal, Sikkim và Bhutan.Sự thực hành của Tây Tạng như thế là một hình thức toànbộ của Phật giáo, tôi không nói thế để phô trương, màđể đem đến cho chủ đề những yếu tố cho phép đi vàosâu.

Phậtgiáo Tây Tạng gồm có bốn phái : Nyingma, Kagyu, Sakya và Gelu,chúng còn phân thêm nhánh. Phái Nyingma giới thiệu cả chínthừa, sáu lập trên Kinh giáo và ba trên những tantra, thêmvào đó còn phải tính đến những hệ thống thoát thai từnhững bản văn được khám phá (terma).

Ngườita tìm thấy trong lòng bốn phái Phật giáo Tây Tạng một sựnẩy nở các “chuyên đề” ; tuy nhiên, mỗi phái đều nêura một hệ thống chặt chẽ những thực hành thống nhấtcả kinh giáo và tantra. Đó là do sự kiện, trong cuộc tìmkiếm thực tại như thực, chúng đều quy chiếu vào kiếngiải mà trường phái Hệ Quả của Trung Đạo (Prasangika-Madhyamika)bảo vệ. Và đối với động cơ và những hành động vịtha, chúng theo cùng phương pháp để lĩnh hội ý hướng vịtha nhắm đến giác ngộ và thực hành sáu hoàn thiện.

Đâulà bước đi của một người cầu đạo muốn làm việc trênkinh giáo và tantra để kết hợp chúng ? Trước tiên, về bênngoài hạnh kiểm của anh ta phải hợp với kỷ luật củaTiểu thừa. Ví dụ, những thiền giả cư sĩ Tây Tạng, dầucho họ thực hành những tantra, phải tôn trọng những lờithệ nguyện cư sĩ của Tiểu thừa và bên ngoài có một lốisống hợp với giới luật đó. Rồi ở bên trong, anh cầntu hành và phát triển tâm thức để đánh thức và làm tăngtrưởng nơi anh ý nguyện vị tha đạt được giác ngộ, màtừ bi là gốc rễ. Và cuối cùng, một cách bí mật, trongthực hành thiền định về thần bổn tôn, anh đi vào sựtập trung vào những kinh mạch, những giọt căn bản và nhữngkhí (năng lượng), để phát triển khả năng tiến bộ trêncon đường.

ỞTây Tạng, chúng tôi đánh giá tất cả những phương diệnthực hành này là tương hợp với nhau ; chúng tôi không thấycó một mâu thuẫn nào giữa kinh giáo và tantra, như nóng vớilạnh ; chúng tôi xem sự thực hành cái thấy tánh Không vàsự thực hành những hành động vị tha không có gì trái nghịchnhau. Bởi thế, chúng tôi hòa hợp hai hệ thống này để tạothành một thực hành thống nhất.

Tómlại, nguyện vọng vị tha đạt đến giác ngộ là nền tảngtừ đó khai triển tất cả một loạt thực hành đại bi ;và giáo lý tánh Không là cội nguồn từ đó lưu xuất nhữngphương pháp kinh nghiệm cái thấy sâu xa. Để dẫn dắt tâmthức mỗi lần càng gần hơn với cái thấy tánh Như củacác hiện tượng, thiền định là cần thiết.

Tronglãnh vực này, hành giả phải đạt đến chánh định (samadhi)và sử dụng một sức mạnh đáng kể để thông thạo nó; về mặt này, yoga về hóa thần tỏ ra là một dụng cụđặc biệt thích hợp, vì nhờ nó mà có được một chánhđịnh là sự thống nhất của chỉ và quán. Những kỹ thuậtnày phải đặt trên một sự duy trì gắt gao đạo đức.

Đểtóm tắt sơ đồ đầy đủ của thực hành theo Tây Tạng,bên ngoài cần giữ giới luật của Tiểu thừa, bên trong phảitrung thành với kinh giáo Đại thừa bằng sự đánh thức lòngvị tha, tình thương và đại bi và một cách bí mật duy trìsự thực hành Mật thừa.

Sautổng quan về sự thực hành với những đường nét lớn,tôi sẽ đưa ra vài khái lược về những mặt đặc biệtcủa nó. Tất cả những hệ thống tư tưởng Phật giáo vàkhông Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ được thiết lậptrên nguyên lý tìm kiếm hạnh phúc và trên sự phân chia nhữnghiện tượng thành hai nhóm : các sự vật được sử dụngvà những người sử dụng sự vật. Những người Ấn Độkhông Phật giáo nhấn mạnh vào tự ngã sử dụng sự vật; xây dựng những lý thuyết của họ trên sự quan sát rằngtự ngã tự biểu hiện cho tâm thức như là người sử dụngtâm và thân, như là người nhận biết sướng và khổ –điều làm cho chúng hình như có khác biệt với tự ngã –họ kết luận rằng tự ngã có một hiện hữu riêng và xemnó như một thực thể khác biệt với thân và tâm, nó làyếu tố của tái sanh từ đời này sang đời khác.

Nhưngngười Phật giáo không chấp nhận nguyên lý một tự ngãhoàn toàn riêng biệt, một thực thể khác với tâm và thân; họ khước từ ý niệm một tự ngã thường hằng, độcnhất, độc lập. Tóm lại, bốn pháp ấn được tuyên bốđể chấp nhận một giáo lý chính thức là Phật giáo gồm:

1.Tất cả mọi sự có sanh là vô thường.
2.Tấtcả hiện tượng bị nhiễm ô đều là khổ.
3.Tấtcả là không có tự ngã.
4.NiếtBàn là an tĩnh.

Sựkhước từ một tự ngã riêng biệt với thân tâm là nguyênnhân cho sự xuất hiện những chủ đề về cách thức tìmkiếm tự ngã trong tương quan với tâm thức và các uẩn vậtlý trong tư tưởng Phật giáo.

PháiTrung Đạo tự chủ (Svatantrika-Madhyamika), phái Duy Thức (Chittamatra)và phái Đại Chú Giải (Vaibhashika) chủ trương rằng mộtyếu tố phát sinh từ năm uẩn thân tâm là nguyên lý củatự ngã. Nhưng theo phái được tán thành nhất là phái HệQuả của Trung Đạo, không có cái gì trong năm uẩn thân tâmmà người ta có thể chủ trương hay diễn tả như là tựngã.

Mọitrường phái này đều chủ trương vô ngã, nhưng thế khôngcó nghĩa là một sự phủ nhận tuyệt đối tự ngã. PháiHệ Quả của Trung Đạo xác nhận rằng tất cả mọi tìmkiếm một tự ngã như nó hiện diện một cách cụ thể vớitâm thức chúng ta chẳng đạt đến đâu cả. Theo cách ấy,nó không thể chỉ ra được bằng phân tích. Cái cần đượcsự phân tích chỉ ra là sự “tự hữu”, và chính sự khôngcó tự hữu này mà con đường Trung Đạo đề cập đến khinó nói về vô ngã : nhưng ngược lại, nó chủ trương mộttự ngã, một cái Tôi hay một người mà người ta đặt tênmột cách quy ước trong tương quan với tâm thức và thân thể.

Mọilý thuyết Phật giáo đều chủ trương pratitya samut-pada, duyênsanh, sự sanh khởi hỗ tương. Một trong những điểm giáolý của nguyên lý này là : sự xuất hiện của mọi hiệntượng vô thường là tùy thuộc vào một toàn bộ những nhânvà duyên, như vậy những sự vật hiện diện theo cách tùythuộc nhau. Duyên sanh còn nói lên một ý nghĩa khác : tấtcả mỗi hiện tượng đều được đặt tên – hay hiện diện– trong tương quan với toàn thể những phần tử của nó.

Khiđi vào những thí nghiệm cho các hạt va chạm nhau để chianhỏ vật chất, các nhà vật lý chứng minh nguyên lý này,theo đó những hiện tượng được đặt tên tùy theo toànbộ những phần tử của chúng, những phần tử ấy đượcgọi là những hạt căn bản.

Mộtđiểm thứ ba còn xác nhận lý thuyết duyên sanh : những hiệntượng chỉ hiện hữu một cách danh tướng. Điều đó cónghĩa là những sự vật không hiện hữu một cách khách quantrong tự chúng, bởi tự chúng, mà tùy thuộc vào một sựđặt tên chủ quan. Nói rằng những hiện tượng hiện diệnhay được đặt tên trong tương quan với một tâm thức ýniệm nó quy cho chúng tên này tên nọ không có nghĩa là khôngcó những vật thể bên ngoài các giác quan, như phái Duy Thứcchủ trương : theo phái này, những sự vật chỉ là nhữngtri giác của thức, nhưng mặc dầu từ chối thực tại ởbên ngoài của chúng, phái ấy không nói rằng ngay cả sắc,thọ… cũng không hiện hữu.

Dướiánh sáng của ba giải thích này, ý nghĩa của duyên sanh mỗilúc một sâu xa hơn. Vì sự hiện hữu của tự ngã, ngườihiểu biết những đối tượng, tùy thuộc vào những yếutố khác, nó không độc lập mà tùy thuộc. Giả thiết vềsự độc lập của nó bị loại trừ, tự ngã tất yếu khôngcó tự thể. Vậy thì, thực tại của tự ngã, người ta biếtsướng và khổ, chính là sự không có tự thể độc lập,vô tự tánh. Khi lý thuyết này soi sáng, nó phản chiếu tứcthì trên cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta bắt đầucó thể chế ngự những phiền não.

Nhữngtình cảm tham đắm đến do chúng ta đánh giá quá cao hoặcquá thấp những hiện tượng bằng cách gán cho chúng nhữngphẩm chất hay khuyết điểm mà tự chúng không có. Sự tưởngtượng của chúng ta làm mạnh thêm đối tượng và làm bốccháy những xúc cảm của chúng ta, đến nỗi khi chúng ta mắcvào ham muốn hay thù hận một người nào, có khi chúng ta thấynó cùng cực hấp dẫn hay đáng ghét. Xúc cảm bắt buộc chúngta như là nó có thật một cách khách quan. Về sau, khi nó lùilại rồi, dù chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi, người ta đãmuốn cười ; tình cảm xâm chiếm tâm thức chúng ta khôngcòn đó nữa. Đó là bằng chứng ham muốn và thù hận in vàovật gì đều làm phóng đại và hư hỏng thực tại. Sự thấuhiểu những tiến trình này giúp đỡ nhiều cho chúng ta đểchế phục những đam mê hàng ngày.

Sựkiểm soát tâm thức tùy thuộc vào khả năng thấy sự vậtnhư chúng thật sự là và không qua những vọng tưởng củachúng ta. Chánh kiến là một yếu tố của trí huệ, nhưngphải thêm vào đó một yếu tố phương pháp.

Trongý định nào chúng ta cố gắng đạt được trí huệ ? Nếuchúng ta chỉ nhìn thấy lợi ích cho riêng mình, trí huệ sẽbị giới hạn. Để tỏa sáng, nó cần được nâng lên caobởi tình thương, đại bi, sự ân cần chăm sóc người khác; nó trải rộng hiến mình phụng sự cho họ. Trí huệ vàphương pháp kết hợp với nhau như vậy. Khi những vọng tưởngkhông làm méo mó nó, tình thương thì tràn đầy lương trivà mẫn cảm.

Khisự ân cần và lòng bi mẫn thoát khỏi những tình cảm thamđắm được soi sáng bởi cái nhìn thấy thực tại rốt ráo,chúng thấu đến những kẻ thù của chúng ta. Đó là mộttình thương bao la hơn tất cả. Thông thường, tình thươngthì quá thiên vị, quá trộn lẫn với chấp thủ để có thểchỉ gởi đến cha mẹ, bạn bè… Nhưng khi người ta thấuhiểu bản chất rốt ráo của sự vật, yêu thương trở thànhmột vận động tự nhiên và thuần khiết. Để tiến bộvề phía giác ngộ, người cầu đạo phải hòa hợp trí huệvà phương pháp vào cái hàng ngày. Trong cách sống bên ngoài,nó có thể dùng giới luật của Tiểu thừa và tu hành trongsáu ba la mật của Đại thừa như kinh điển diễn tả ; nếu,hơn nữa, nó thực hành tantra trong yoga hóa thần, chánh địnhsẽ thiết lập và an trụ một cách nhanh chóng.

Đólà con đường mà người Tây Tạng dùng đến trong thực hànhhàng ngày của họ, thế nên tôi gọi chúng là “những củacải của Phật giáo Tây Tạng”.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2020(Xem: 5032)
Xã hội tự do của chúng ta có các trường Đại học là nơi phản ánh xã hội và sản xuất những đổi mới. Họ là nơi chuyển giao kiến thức và tạo ra kiến thức. Nhưng họ cũng là nơi quan tâm đến sự phát triển của mỗi cá nhân. Đặc biệt là điểm cuối cùng phải được cân nhắc mạnh hơn khi đối mặt với số hóa ngày hôm nay.
06/01/2020(Xem: 7535)
Hình 1: Từ trái sang, Ngài Phó Thủ tướng Chính phủ Singapore, Vương Thụy Kiệt đã tham dự buổi lễ Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội Phật giáo Cư sĩ Lâm Singapore. Ảnh TNP: Jason Quah Nhân Kỷ niệm Ngày Phật Thành đạo 8/12/Kỷ Hợi (02/01/2020), tại địa chỉ Kim Yam Road, Singapore, một trong những tổ chức từ thiện Phật giáo Cư sĩ Lâm Singapore (The Singapore Buddhist Lodge - SBL; 新加坡佛教居士林) đã kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội, Khánh thành Chính điện mới, khai quang kim thân Phật tượng, với sự hiện diện của hàng nghìn người gồm các vị chức sắc đa tôn giáo, lãnh đạo chính phủ và khách quốc tế Hoa Kỳ, Trung Quốc và Indonesia.
22/03/2019(Xem: 6225)
Phật giáo là tên gọi giáo pháp của Đức Phật Cồ-Đàm, thường được các tín đồ gọi là Phật pháp. Được thành lập bởi Đức Phật Thích Ca (560-480 TTL) ở miền Bắc Ấn Độ, sau đó được Hoàng đế A Dục chấp nhận là quốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phương và cuối cùng trở thành tôn giáo có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
07/09/2018(Xem: 7666)
Theo truyền thống Đại thừa, một ngàn vị Phật sẽ giáng thế trong thời kiếp may mắn này là điển hình của Hóa thân tối thượng (mchog-gi sprul-sku, thể dạng của các hóa thân tối thượng). Mỗi một vị Phật trong một ngàn vị Phật đã thành tựu giác ngộ từ lâu. Khi một vị Phật thị hiện trong thời kiếp này thì mỗi vị sẽ đồng thời hóa thân ở Nam Thiệm Bộ Châu (Southern Continent) trong mỗi một tỷ hệ thống thế giới trong vũ trụ của chúng ta, đồng thời thực hiện mười hai công hạnh giác ngộ (mdzad-pa bcu-gnyid) của một vị Phật ở nơi đó.
01/08/2018(Xem: 12738)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
14/07/2018(Xem: 8528)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật. Nay trên trang website của nước Ấn Độ thống kê Phật giáo chỉ có 0,7 % của dân số Ấn Độ. Quý vị có thể tham khảo trang nhà nước Ấn Độ theo đường nối kết bên dưới.
21/03/2018(Xem: 17378)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
02/02/2018(Xem: 8565)
Rắc Rối Về Phật Giáo Của Bà San Suu Kyi. "Aung San Suu Kyi’ s Buddhism Problem” Tại sao biểu tượng dân chủ của Miến Điện lại không lên tiếng bênh vực các sắc dân thiểu số và chống lại chủ nghĩa quốc gia, tinh thần kỳ thị chủng tộc, bài ngoại và thỉnh thoảng bạo động của tín đồ Phật Giáo chiếm đa số trên đất nước Miến Điện? (Bài viết của William McGowan đăng trên tạp chí Foreign Policy ngày 17/9/2012) Suốt đoạn đường đấu tranh lâu dài chống lại các ông tướng của Miến Điện, Bà Aung San Suy Kyi – biểu tượng của nền dân chủ- phần lớn dựa vào tinh thần Phật Giáo. Bà đã tán dương một tôn giáo đã giúp bà tìm thấy tự do ở trong tâm tưởng suốt 15 năm bị quản thúc tại gia và nói rằng giáo lý, chẳng hạn như “bao dung” (loving kindness) có thể giúp
01/01/2018(Xem: 42251)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 9486)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]