Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Đối mặt với một thầy tu đạo Bošn

09/01/201106:27(Xem: 4618)
16. Đối mặt với một thầy tu đạo Bošn

16

Đối mặt với một thầy tu đạo Bošn


Một lần nọ, con người vĩ đại Jetsušn Milarepa đi đến núi tuyết Ti Se với năm đệ tử để thiền định. Một đệ tử bị bệnh và không thể tiếp tục, họ thiền định mùa hè trên một trái núi hoang vu trong miền Lowo Thượng.(33) Vài người thấy họ và tò mò : “Người nào mà có thể sống thời gian lâu trên ngọn núi trơ trọi ấy ?” Biết đó là thiền giả Milarepa, họ đến đảnh lễ và cầu pháp. Mila hát cho họ :

Lowo là xứ tối tăm của ma quỷ.
Những thành phố là nhà giam của ma quỷ.
Kính trọng và địa vị là sợi thừng cột trói của ma quỷ.
Tiêu khiển là sự che ám của ma quỷ.

Ở đây, trong núi non vắng vẻ không người,
Tỉnh giác là thiền định nở hoa.
Ở đây sự chú tâm trưởng thành lớn mạnh.
Các bạn nhóm họp ở đây, hãy nghỉ ngơi đi –
Tôi cầu xin cho sự may mắn và sung túc tâm linh của các bạn.

Nói rồi, ngài bắt đầu ra đi. Họ kêu gọi ngài, nhưng ngài không nghe. “Mùa thu hoạch tới rồi. Tất cả các bạn có việc phải làm. Tôi sắp đi tìm lương thực cho mùa đông.” Khi ngài lên đường những thí chủ nam nữ và con cái họ theo ngài đến đỉnh đèo Kora. Họ lễ lạy, đi nhiễu quanh ngài và nồng nhiệt xin ngài ở lại. Cuối cùng họ nói, “Chúng tôi không thể gặp lại ngài, Jetsušn vĩ đại. Xin ban cho chúng tôi sự che chở bây giờ, trong trung ấm và trong những đời sau.”

Những sự kiện này và những bài ca của Mila được ghi lại trong Một Trăm Ngài Bài Ca.(34)

Những đệ tử cũng đi với ngài đến đèo Kora rồi trở lại Lowo để khất thực. Trong khi đó, Jetsušn tiếp tực đến Ti Se với Seben Repa. Trên cao nguyên trung tâm Drosho có nhiều người chăn gia súc tụ hội ở đó và Mila và Seben đến khất thực. Trước một lều lớn có một người có vẻ là thầy tu Bošn đang nhận đồ cúng dường của những người chăn. Họ đến gần và ngồi xuống. Những đồ thừa từ những cúng dường cho vị thầy tu Bošn được gom lại để cho họ.

Mila và Seben ngồi yên suốt buổi phục vụ cho vị thầy tu Bošn, nhưng khi ông sắp nói lời hồi hướng kết thúc, họ đứng dậy bỏ đi. Người tu sĩ hỏi họ, có vẻ giận dữ, “Tại sao các ông không nghe lời hồi hướng của tôi ?”

“Sự hồi hướng của tôi thì khác với của các bạn. Chúng ta sẽ nói riêng phần mình.”

“Tốt lắm, hãy nói cái của các bạn đi.”

“Ông không cần thiết phải nghe sự hồi hướng của tôi.”

“Nào, tốt lắm, ông không cần phải lưu tâm đến một sự hồi hướng nhân danh cái đuôi và ngực của con trâu yak dành cho tôi.”

“Tôi cũng có quyền nói một lời hồi hướng vì miếng da còn lại này từ những cúng dường cho ông đấy.”

Tu sĩ giận dữ, “Tôi không thán phục sự hồi hướng của bạn, nhưng bạn có thể cầu nguyện vì miếng da thừa của bạn – tôi sẵn sàng nghe bạn nói.”

Thế rồi Mila hát :

Lama từ ái muôn đời
Bổn tôn ban cho những thành tựu,
Tam Bảo đáng tôn kính của mọi người,
Vô số hộ pháp nhiều như biển của giáo lý –
Xin luôn luôn giữ gìn con trong tâm.

Do công đức
Của sự cúng dường thức ăn dư
Cho những thiền giả đi khất thực,
Nguyện cho tất cả chúng sanh, mà đầu hết
Là những thí chủ và con cái các bạn,
Có được hạnh phúc tốt nhất trong đời này.

Nguyện các bạn không có khổ đau vào lúc chết
Có được một thân người hay trời rỗi rảnh và cơ hội may mắn
Trong mọi hoàn cảnh của tái sanh
Và sau khi hưởng thụ cái tốt nhất của mọi cuộc đời
Cuối cùng đạt được toàn giác.

Nguyện tất cả những thiền giả khất thực,
Vô số hồn linh v.v...
Thỏa mãn với sự cúng dường đồ thừa này
Đạt đến cảnh giới thanh tịnh của thực tại.

Trong thực tế, sự cúng dường, hồi hướng và những người cho,
Người yêu cầu hồi hướng, người hồi hướng v.v...
Đều như một giấc mộng, ảo huyễn và tiếng vang,
Như ảo ảnh và những hoa đốm trong không trung.

Vị lama đạo Bošn bấy giờ nói, “Đây là một thí dụ của câu cách ngôn : “Từ đống rác rưởi một con cọp vươn mình lên.” Ông là ai ? Ông từ đâu đến ? Dòng phái của ông là gì ? Ông đã học hỏi ở đâu ? Sự thực hành của ông là gì ?”

Trả lời, Mila hát bài ca này :

Con lễ lạy chân lama của con.
Ngài chuyển hóa đất thành vàng,
Vàng thành viên ngọc như ý,
Và viên ngọc như ý thành nguồn của mọi phẩm tính tốt đẹp.

Bây giờ con sẽ đưa ra vài câu trả lời
Cho những câu hỏi của vị thầy đạo Bošn này :

Quê hương tôi là Tsa Rošn trên đồng bằng Gungthang.
Tôi đến UŠ và Tsang để học.
Vào thời trẻ tôi đã hủy diệt những kẻ thù đáng ghét của tôi
Với tà lực, nguyền rủa và mưa đá.

Sau đó tôi cảm thấy hối hận vô cùng
Và đi gặp Marpa dịch giả.
Nhận được pháp, tôi lấy thực hành làm mối quan tâm duy nhất.
Và khai quang xuyên qua mê lầm đến trạng thái tự nhiên.
Với sự chứng ngộ trạng thái hiện thực sanh ở bên trong,
Giờ đây tôi không còn sợ ngay cả cái chết.

Cái nhìn của tôi là thấy thực tại ;
Tôi trau dồi những khí, kinh mạch và hạt.
Tôi thực hành trong trạng thái của thực tại hiện tiền –
Ba thân tự nhiên là kết quả của tôi.

Lama của tôi là Marpa Lotsawa,
Dòng của ngài truyền từ Tilopa và Naropa
Cho đến bậc chiến thắng Vajradhara.
Tôi theo sự thực hành những Tantra Nói Thầm Vào Tai(35)
Và như thế đạt được sự làm chủ những khí và kinh mạch.

Vị thầy tu đạo Bošn xúc động mạnh, “Tôi kinh ngạc ! Và những người thực hành Pháp các vị nói gì về tôn giáo Bošn, cái swastika (nghĩa là thực tại) tối hậu ?”

Mila tiếp tục :

Hãy nghe, vị thầy Bošn – tôi sẽ làm an ổn những nghi ngờ,
Lồng cũi mê lầm và suy nghĩ sai của ông.

Trước tiên, về nguồn gốc của Pháp
Ngài được gọi là Phật
Ngài đã khai triển trí huệ sáng soi
Qua sự loại trừ mọi huyễn hoặc.

Phật thì không có bắt đầu hay kết thúc –
Phật nguyên sơ(36) thì không có nguyên nhân –
Điều này thường được nói trong kinh điển.
Chúng sanh vô minh từ khởi thủy,
Thu góp hành động (nghiệp) qua vô minh ấy.
Họ có những thân thể tương ứng,
Và như trước, thu góp những hành động khác nhau
Với cái thân mới này.

Hành động (nghiệp) có ba thứ – tốt, xấu và trộn lẫn.
Hành động bị điều động bởi ba độc
Giận ghét dẫn sanh về địa ngục,
Tham muốn dẫn sanh hồn ma không thỏa mãn,
Và mê lầm dẫn sanh thành thú vật.
Hành động trộn lẫn sanh ra những kết quả khác nhau trong ba trạng thái này.

Hành động tốt dẫn đến những trạng thái cao hơn,
Và hành động tốt tối cao
Làm tăng trưởng hai kho công đức và trí huệ
Bố thí, trì giới và nhẫn nhục
Là nguồn của công đức ;
Và định và huệ,
Trong cuộc sống làm người hay làm trời,
Là nguồn của đại trí huệ.

Tuy nhiên định mà không có trí huệ thấm nhuần,
Dầu có tốt đến bao nhiêu,
Chỉ dẫn sanh bốn thiền và bốn xứ
Ở trên đỉnh của hiện hữu sanh tử.(37)
Khi nghiệp quả đã hết tận,
Người ta lại lang thang trong sanh tử luân hồi.

Tinh tấn tham dự vào tất cả các ba la mật kia :(38)
Và trí huệ được hoàn thiện
Bằng cách hòa hợp định và huệ
Qua sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên như nó vốn là.

Những kết quả của việc hoàn thành hai kho
Công đức và trí huệ theo lối này
Gồm pháp thân như hư không cho chính mình,
Do bởi trí huệ thanh tịnh,
Báo thân như một mặt trời giữa hư không
Dành cho sự tu hành của những đệ tử đã phát triển,
Và hóa thân như những tia sáng mặt trời
Dành cho những người tu hành kém phát triển,
Cả hai đều từ kho công đức.

Cấu trúc này được gọi là
“Ba thân tự nhiên là quả” ;
Mẩu nhỏ hấp dẫn của giáo lý như thế
Là một phần nhỏ của giáo pháp.

Những người ngu càn rỡ của thời trước
Nói rằng Bošn và Pháp là anh em.
Lý do của điều này
Được những người đạo Bošn ngày xưa giải thích như sau :

“Vào khởi thủy không có đất hay trời.
Nước, lửa, không khí không hiện hữu.
Từ trạng thái trống không nguyên thủy này
Mẹ Bošn “Kho Tàng-Không Gian” nổi giận
Thở nguyên tố không khí từ miệng bà,
Phát ra nguyên tố nước như là nước tiểu,
Và chớp sáng ra lửa từ hơi nóng của tâm mình.

“Bà ép răng và móng tay thành nền đất
Trên đó cái trứng của hiện hữu được tự sinh,
Và từ sự bể vỏ của cái trứng này
Sáu loại chúng sanh, thế giới hình tướng và cả đạo Bošn khởi sanh.”

Họ tuyên bố Pháp khởi sanh sau đạo Bošn !
Vì lý do đó chúng là anh em của nhau
Theo sự càn rỡ của những người ngu ấy.

Vào khởi thủy trời không hiện hữu.
Trời thì tương đương với không gian.
Không gian thì tự nhiên trống rỗng
Và không thể nói là hiện hữu hay không.

Một “bà mẹ-không gian” trong cái trống không ban sơ này
Cũng là điều xằng bậy của những người ngu –
Hãy bịt tai ông với hai bàn tay
Trước tiếng vang của điều càn rỡ đó.

Theo những nguồn tài liệu mới mẻ hơn
Một pháp sư Phật giáo rất thông tuệ
Ở trong xứ Ấn Độ
Đến thăm nhà một cô gái điếm.

Thức dậy trước bình minh, ông mặc y phục,
Nhưng do lầm lẫn ông mặc vào
Cái váy của người đàn bà thay vì của mình.

Trở về tu viện lúc bình minh
Người ta thấy ông mặc một cái váy xanh
Và ông bị đuổi khỏi cộng đồng.

Sau cùng ông tìm đường đến Tây Tạng
Và với cảm nhận khắc nghiệt trong xứ sở lưu đày này
Đã sáng tạo một tôn giáo sai lầm và đặt tên là Bošn.
Vào lúc đó ở miền Thượng Tây Tạng(39)
Một đứa con trai do một người đàn bà sanh ra
Bởi một con rồng đen vĩ đại và thần lực.

Nó có hai tai rất lớn
Và như thế được biết
Với cái tên Đứa Bé-Lừa.

Dù nó là con của một con rồng thần lực,
Mẹ nó theo đạo Bošn,
Thế nên khi cậu bé lớn lên
Cũng được học đạo Bošn,
Và được gọi là người-Lừa Shenrab.(40)

Bấy giờ nghe danh tiếng
Của vị thầy đạo Bošn là Váy Xanh,
Shenrab đi qua bình nguyên bao la miền Bắc để đến với ông.

Dòng đạo Bošn mới này
Chỉ có từ Váy Xanh và Shenrab.
Như thế nếu ông nghĩ : “Nếu cả hai đều dẫn đến cái tối hậu,
Đâu là sự khác biệt giữa Pháp và đạo Bošn ?”
Tôi sẽ trả lời rằng tổ tiên của đạo Bošn
Là người thoái hóa tôn giáo, rồng thần lực và ma quỷ –
Làm sao nó đưa đến cái tối hậu ?

Như thế đạo Bošn có một dòng dõi tổ tông thấp kém,
Và giống như mọi tôn giáo “ngoại đạo”
Khác với Pháp ở nguồn gốc quy y :
Tam Bảo là nơi quy y cho những người Phật tử,
Trong khi Brahma, Isvara và Visnu cho những người ngoại đạo.

Đức Phật toàn hảo là bậc
Có thể giải thoát cho những người khác
Dù ngài đã giải thoát khỏi sanh tử ;
Nhưng những vị trời thế gian như Isvara,
Họ còn bị trói buộc vào sanh tử,
Chỉ có thể ban cho
Những thành tựu thế gian nhất thời –
Làm sao họ có thể ban cho sự tự do của giải thoát ?
Đó là lý do họ được gọi là “ngoại đạo”.

Quả thực những người thực hành đạo Bošn,
Có thể chữa bệnh, xóa bỏ những ngăn chướng,
Và sở đắc những thành tựu bình thường.
Nhiều thành tựu giả đạo Bošn
Cỡi những cái trống bay qua bầu trời,
Đốt những đám lửa lớn trên nước,
Cắt sắt bằng một lông vũ, vân vân.
Nhưng nếu ông nghĩ đấy là những dấu hiệu của sự phát triển,
Tôi sẽ giải thích nó như vầy :

Thiền định về thế giới rỗng không, như huyễn, hình tướng bên ngoài
Sẽ chuyển thành tương ứng –
Ông đã nghe trở thành một con cọp
Bằng cách quán tưởng thân thể ông là một con cọp ?

Thiền định về đất, không khí, lửa và nước
Cũng tạo ra như những kết quả,
Nhưng gốc rễ của ảo tưởng này
Chỉ một vị Phật mới chặt đứt được –
Không ai khác có thể phá hủy ảo tưởng.

Như thế con đường chân thật được du hành
Khi thực hành những lời dạy của một vị Phật không còn mê lầm –
Phật quả không đạt được bằng bất kỳ con đường nào khác.

Nếu người ta bị hạn cuộc vào những thành tựu thế gian,
Làm sao người ta đạt đến cái tối hậu
Bằng Ấn giáo, Bošn, hay những đường lối khác ?
Và nếu bay trên trời là đủ
Thì mọi con chim phải là những vị Phật !

Bởi thế, mọi thứ này
Chỉ là những dấu hiệu của chứng đắc thế gian
Có một bản chất hình tướng bề ngoài, như huyễn
Không thể đưa người ta đến giác ngộ.
Khi mọi sự được thiền định là hoàn toàn trống không
Để có được sự chứng nghiệm về trống không
Và cắt đứt ảo tưởng của tâm thức
Về huyễn ảo có từ vô thủy,
Nó dẫn đến lý thuyết hư vô khiến sa vào các trạng thái thấp
Và không thể ngăn ngừa sự tăng trưởng của thống khổ.
Hơn nữa, ham muốn có những thành tựu là theo vật chất,
Nó cũng cột trói người ta vào sanh tử.

Như thế nếu ông muốn đi vào con đường không sai lầm,
Hai thực tại cần được biết :
Thế giới giả tạo và cái tuyệt đối.

Cái giả tạo cũng có hai :
Cái giả dối và không thực.
Và cái thực nhưng theo điều kiện mà có.

Cái trước, cái giả tạo hư giả –
Như cái phản chiếu trong nước hay trong gương –
Không được xem là thực thậm chí với con trẻ ở đời.
Cái sau, tất cả mọi hiện tượng bề ngoài –
Cho đến khi đạt đến Niết Bàn
Có vẻ là thực –
Như vậy đều là thực một cách bề ngoài giả tạo.

Để chứng ngộ thực tại tuyệt đối,
Hãy dẹp bỏ những ngăn chướng của hành động và của phiền não
Bằng cách thu góp một kho vĩ đại công đức
Nhờ bố thí, trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn.
Và hãy dẹp bỏ sự ngăn chướng với toàn giác
Bằng tập trung thấm nhuần trí huệ.

Bấy giờ bằng cách hòa nhập định tĩnh thuần khiết và quán chiếu,
Thực tại tuyệt đối được giáp mặt.
Đó là con đường chứng ngộ của những thiền giả repa.

Sự giải thích chi tiết của Mila về những điểm này qua trung gian ngôn ngữ hùng biện của ngài gợi ra niềm tin vững chắc nơi những người nghe. Khi tiếp xúc với Jetsušn, tu sĩ đạo Bošn từ bỏ tôn giáo của mình và xin được quán đảnh và dạy dỗ. Ông xoay hướng cái nhìn về mục tiêu thực tại và sau khi hoàn thành giai đoạn phát triển được đời biết đến như một thiền giả lão luyện, tuyệt hảo.

uongdongsuoinui-07



Mila và “giấc mộng” gợi ý


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/12/2015(Xem: 5156)
Thiên Đồng Thiền Tự (天童禅寺) nằm tại làng Thiên Đồng ở dưới chân núi Thái Bạch của Ngân huyện, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang và được gọi là "Đông Nam Phật Quốc-東南佛國" hay “Ninh Ba Thiên Đồng Thiền Tự Pháp Vân Tuệ Nhật Thiên Phật Thiên Tăng- 寧波天童禪寺法雲慧日千佛千僧” vì là một trong năm Tòng lâm lớn nhất Trung Quốc. Ngôi Già lam Cổ Tự được kiến tạo vào đầu thế kỷ thứ IV, đời Tây Tấn năm Vĩnh Khang Nguyên (300), ban đầu chỉ là một Thảo am trên diện tích rất nhỏ nhưng theo thời gian đã lên đến 45 nghìn mét vuông, có đến khoảng 20 quần thể kiến trúc cổ như Thiên Vương điện, Đại Hùng Bảo điện, Thiên Phật các, Ngự Thư lâu, Hồi Quang lâu, Phản Minh lâu, Chung lâu, Pháp đường, Lục Thảo đường, Giới đường, La Hán đường . . . Điện đường, Lầu, Gác, Phòng liêu có đến 30 tòa, gồm 999 gian điện thất rất quy mô hùng vĩ. Hiện còn 730 gian, diện tích 7.640.000 mét vuông, diện tích xây dựng 28.800 mét vuông.
27/12/2015(Xem: 4810)
Hôm thứ Sáu, 25/12/2015, tại thành phố Nakhon Pathom, miền Trung Thái Lan đã diễn ra buổi lễ dựng Đài Tưởng niệm Sư tổ Phramongkolthepmuni, người sáng lập ra dòng thiền Dhammakaya (Pháp Thân) và cũng là Bổn sư của Ni trưởng Khun Yay, người sáng lập Trung tâm Dhammakaya (Pháp Thân Tự).
21/12/2015(Xem: 8270)
Mùa hạ năm Ất Mùi – 2015, khi đến dự hội nghị giảng sư của học viện, Thượng tọa tổng thư ký TW Giáo hội Phật Giáo Việt Nam giao cho chúng con nhiệm vụ liên lạc với ban tổ chức Diễn đàn Quốc Tế Sùng Thánh – 2015 để chuẩn bị cho phái đoàn của học viện tham dự diễn đàn. Từ hội nghị Hội đồng trị sự TW ở Sài Gòn, Thượng tọa tổng thư ký gọi điện về báo chốt danh sách thành viên phái đoàn để chính thức báo cho ban tổ chức diễn đàn làm thiệp thỉnh. Sau khi dự hội nghị Hội đồng trị sự trung ương trở về, Hòa thượng viện trưởng lại giao cho chúng con thêm một công việc lớn là xây dựng chương trình, liên lạc, bố trí sắp đặt để sau khi tham dự diễn đàn kết thúc, phái đoàn sẽ thực hiện chương trình tìm về tổ đình nơi Sơ tổ Thiền phái Tào Động Việt Nam đã cầu đạo và đắc pháp.
27/04/2015(Xem: 10123)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
06/04/2015(Xem: 7243)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
24/03/2015(Xem: 4795)
Tôi vẫn say mê với Phật Giáo Thái Lan từ những hình tượng lạ, bí ẩn trên các trang sách thiếu nhi – đúng ra, một phần là các hình khắc trên tường ở hai vách Chùa Xá Lợi (Sài Gòn). Đây là một ngôi chùa có ngọn tháp kiểu các chùa Bắc Tông Miền Trung, nơi tầng thứ nhì của tháp là thư viện, nơi đầy những kinh sách rất mực bí ẩn đối với bọn thiếu nhi chúng tôi lúc đó. Nhưng các vách tường chính điện là điêu khắc kiểu Phật Giáo Nam Tông, những hình tượng cổ cũng rất mực bí ẩn theo hướng chuyện cổ Jataka Tales.
22/03/2015(Xem: 7463)
Mirza Hussain mới 26 tuổi khi những kẻ chỉ huy khủng bố Taliban ấn vào tay ông khối thuốc nổ và bảo đem nó đặt vào các pho tượng Phật lớn nhất thế giới tại quê hương ông, tỉnh Bamiyan của Afghanistan. Các tượng cổ xưa được khắc sâu vào núi, từng là những pho tượng Phật cao nhất thế giới, đã bị phá hủy trong loạt hành động điên rồ của phiến quân Hồi giáo cực đoan năm 2001. Hành động đó đã tạo tiền lệ nguy hiểm cho những kẻ thuộc Nhà nước Hồi giáo tự xưng tiến hành những cuộc đập phá các di sản kiến trúc và tôn giáo thời gian gần đây.
03/03/2015(Xem: 8763)
Với mục tiêu giúp mọi người hướng đến đời sống tâm linh, tổ chức Dhammakaya đã thiết lập nhiều hoạt động nhằm tác động đến đời sống đạo đức tâm linh xã hội hiện đại, nâng cao phẩm giá của con người, hướng đến một nền hòa bình, hòa hợp cho thế giới mà mọi người chúng ta đang tìm cầu. Thời gian gần đây, hoạt động của Dhammakaya đã thu hút người mộ đạo từ Thái lan đến khắp nơi trên thế giới.Trung tâm luôn duy trì những hoạt động này, vì nó đã đem lại thiết thực cho con người tăng trưởng nhân tâm và phát triển xã hội.
10/02/2015(Xem: 6190)
Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới đã được thành lập 65 năm, Đại hội lần thứ 17 được tổ chức từ 16 đến 18 tháng 10 năm 2014 tại thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Nói đến lịch sử thành lập Hội, không thể không nhắc đến người đề xướng ý tưởng thành lập đầu tiên là Ngài Thái Hư Đại Sư và người đệ tử lớn của Ngài là Pháp Sư Pháp Phảng. Bài viết này trình bày công đức của Pháp Sư Pháp Phản trong việc thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới.
07/11/2014(Xem: 31972)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]