Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Những Bài Ca

09/01/201106:15(Xem: 3415)
Về Những Bài Ca

Về Những Bài Ca


Toàn bộ bản văn mà những tuyển chọn này rút ra có tên là Những Câu Chuyện và những Bài Ca từ Truyền Thống Khẩu Truyền của Jetsušn Milarepa, mở đầu bằng lời nói đầu này :

Ở đây (Tây Tạng) vị thành tựu giả (siddha) vĩ đại, nổi tiếng là Milarepa, Vua của các Thiền giả, được chở đi trên con tàu của các thừa. Giữ gìn sự khiêm hạ, ngài thực hành những khổ hạnh và quen sống trong những hang động như một người đội một cái mũ. Ngài hoàn thiện sự thực hành tập trung nhất tâm và lưu xuất hai ngàn tám trăm bài ca từ kinh nghiệm và chứng ngộ. Nghe nói hai ngàn bài được các dakini giữ gìn và loài người không biết đến. Tám trăm bài khác được các thiền giả truyền tụng cho đến ngày nay và dùng cho sự thực hành của họ.

Tám trăm bài ca này được giữ gìn bằng cách viết ra thành ba tác phẩm chính. Tiểu sử của Milarepa như được kể cho đệ tử thân thiết nhất là Rechungpa được dịch ra tiếng Anh lần đầu bởi Kazi Dawa Samdup với cái tên đề Đại Thiền Giả Milarepa Tây Tạng (Evans-Wentz, n.x.b Oxford) và được dịch lại bởi Lob-sang Lhalungpa với cái tên Cuộc Đời của Milarepa (Dutton, NY, 1977 ; bản dịch tiếng Việt n.x.b Thiện Trí Thức, 2000). Bộ sưu tập lớn hơn các câu chuyện và bài ca, Một Trăm Ngàn Bài Ca, được Garma C. C. Chang dịch và in trong nhiều nhà xuất bản. Hai tác phẩm này chứa đựng những tài liệu về Milarepa quen thuộc với Đông lẫn Tây. Thêm nữa, có một hợp tuyển hiếm và ít được biết “từ truyền thống khẩu truyền” chứa đựng, với một ít ngoại lệ, một tài liệu hoàn toàn khác. Đây là Những Câu Chuyện và Bài Ca từ Truyền Thống Khẩu Truyền của Jetsušn Milarepa,(9) từ đó tài liệu cho cuốn sách này và cuốn theo sau, Hành Trình Kỳ Diệu (Lotsawa, 1986). Thêm vào, là một ít cẩm nang thực hành của Milarepa trong Kho Tàng các Lời Dạy và những nhóm chuyện và bài ca ở trong những bản in Tây Tạng ít được biết đến hơn.

Trong cố gắng khám phá ra một bức tranh về nhân cách của Milarepa, sự ca hát và phong cách chỉ dạy của ngài, tác phẩm này là có giá trị, có lẽ hơn so với hai tác phẩm tiêu chuẩn. Một Trăm Ngàn Bài Ca và cũng có thể tiểu sử, được viết ra từ những chuyển biên bằng miệng ở thời trước do “Thiền Giả Điên xứ Tsang”, Tsang Nyošn Heruka Rušs Pai rGyan. Việc ông đưa vào một số lớn sự khéo léo văn chương của ông vào bản viết có thể suy ra từ sự so sánh ít đoạn trong Những Câu Chuyện và Bài Ca. Chẳng hạn, “Sự Gặp gỡ của Mila với Phadampa Sangye” trong sách này tương đương với chương 53 của Một Trăm Ngàn Bài Ca do Chang dịch. Hai bản dịch cùng một sự việc này cho thấy những khác biệt đáng chú ý. Bản dịch trong sách này dài khoảng một nửa so với Một Trăm Ngàn Bài Ca, cả phần kể chuyện lẫn phần bài ca. Ý nghĩa hơn, phong cách thơ ít chải chuốt hơn và ít dùng những yếu tố làm đẹp và khai triển. Giọng điệu của nó tự nhiên hơn và nội dung nó trực tiếp hơn, nhất là khi đọc to tiếng. Sự so sánh như vậy cho thấy nó tùy ứng hơn là cố tình làm văn.

Chất liệu trong Những Câu Chuyện và Bài Ca ở trong một trạng thái nói thì dài hơn hai tác phẩm tiêu chuẩn ; như thế có lẽ chứa đựng một số chất liệu được thêm vào trong những cuộc nói lại giữa các thiền giả. Những đoạn loại này có thể được phân biệt với phần chính của bài bởi thơ ca kém, sự đề cập đến chủ đề dài dòng bất thường và cách nói không cảm hứng, nghèo nàn của chúng. Hầu hết không ngoại trừ, những chỗ thêm vào là những quở trách liên quan đến hậu quả của những hành động xấu, tái sanh trong các cõi thấp, những thống khổ của đời sống sanh tử, và những chủ đề căn bản khác đặc biệt thích hợp cho thính chúng không xuất gia và không có kinh nghiệm thực hành. Giọng điệu nói về sự tra tấn ở địa ngục nhắc chúng ta rằng những bài ca này được những thiền giả tụng đọc, họ giữ chúng trong trí nhớ và thường làm thế để đổi lại những đồ cúng dường lương thực từ những nông dân và người chăn cừu của miền quê Tây Tạng và Nepal.

Khi viết ra tài liệu chứa trong Những Câu Chuyện và Bài Ca, người sưu tập vô danh trong trung tâm tu viện lớn Trashi Gyi ở Amdo, Tây Tạng không chủ ý viết ra theo thể văn chương bóng bẩy. Một số bài ca hay câu chuyện chỉ là những đoạn phác họa ; tuy nhiên những cái khác là những đoạn đặc biệt và có thể bị bỏ khỏi Trăm Ngàn Bài Ca bởi chúng không nói đến một sự việc nổi tiếng hay một cuộc gặp gỡ đầu tiên với một đệ tử chính, hay có lẽ vì chúng không được người sưu tập trước biết đến. Việc chúng là đích thực chính thống có thể phán định từ tính chất và phong cách của chúng, đồng thời hiểu rằng, trong truyền thống khẩu truyền còn tiếp tục đến ngày nay, có nhiều truyền bản có dị biệt của cùng những bài ca.

Một tính cách có ý nghĩa của tài liệu trong Những Câu Chuyện và Bài Ca là nó ít cố gắng thần tượng hóa nhân cách và thái độ đối xử của Mila hơn là trong Một Trăm Ngài Bài Ca hoặc làm cho chúng dễ đọc hơn với độc giả. Ở đây những hành động của ngài tức thời hơn, ít lịch sự hơn, tính khôi hài và trí huệ của ngài xuyên phá cắt đứt hơn, và những phản ứng của ngài nghịch lý hơn. Những bất ngờ và mâu thuẫn có ở đây – có một con người thực sự, rất người, đàng sau những dòng chữ. Cũng có những tư cách mới, có lẽ bởi vì chúng không bị làm biến chất bởi những tình cảm của người chuyển đọc, chỉ ra, chẳng hạn, rằng Mila không ít học như phần đông tin tưởng và ngài dạy sự quan trọng của học hỏi, nghiên cứu trước khi thực hành thiền định dũng mãnh.

Những lời chỉ dạy tốt đẹp luôn luôn thay đổi chủ đề và phong cách theo người nghe, và những bài ca của Mila được hát lên cho nhiều loại thính chúng. Với những nông dân ngài gặp qua lời nguyện khất thực của mình chỉ ở “cánh cổng đầu tiên” mỗi ngày và với những người chăn cừu du mục, thô ráp ngài gặp trong những cuộc lang thang, ngài hát về sanh và chết, liên hệ nhân quả của hành động, vô thường và hạnh kiểm trong một cách thức đơn giản và trực tiếp, dùng những sự vật và kinh nghiệm hàng ngày làm ví dụ. Với các đệ tử ngài hát những giáo huấn chính xác và đúng chỗ để khai mở tâm thức họ với sự thực hành và để dạy và sửa chữa họ. Với những đệ tử của những vị thầy khác, những thiền giả lang thang tìm kiếm ngài để hỏi và những học giả khao khát gặp một người thành tựu thực sự, ngài là một đạo sư đánh giá mức độ và những nhu cầu của một người. Với họ ngài tạo ra những bài ca làm sững sờ với những phát lộ thấu suốt. Trong thính chúng có những quỷ ma không phải là người, với chúng ngài hát lên những thách thức và những cảnh cáo, và với những dakini ngài hát sự bí mật nhất và những tỏ ngộ cá nhân. Đôi khi ngài gặp những đạo sư có chứng đắc có thể so sánh với nhau được. Họ trao đổi những giáo lý và những thách thức, phép thuật và những phát giác, vinh danh cho những chứng đắc tâm linh của tâm thức thiền định đầy năng lực của họ.

Hầu hết những đoạn được hát lên để trả lời một câu hỏi, một thách thức, hay một đòi hỏi phải hát để có bữa xúp, Milarepa đáp ứng không chỉ đối với những câu hỏi mà với những động cơ đàng sau chúng và bối cảnh trong đó chúng được hỏi. Những bài ca không thay đổi lúc mở đầu với một dòng hay một câu cầu nguyện đến Marpa, lama của Mila, cầu xin sự hướng dẫn và những ban phước. Đối với Mila và các người theo ngài đó là vị có thần lực làm phát triển và gây cảm hứng cho sự thực hành của họ. Thỉnh thoảng Mila “cầu khấn van xin” chư Phật và chư lama nhân danh những người nghe để hướng dẫn họ vào Pháp hay giúp đỡ họ trong thực hành. Khi ban cho một giáo lý, ngài thường bao bọc nó với một chuỗi thúc dục cổ vũ súc tích gọi là những lời khuyên dạy. Hầu hết những bài ca đóng lại với một sự hồi hướng hay ban phước, chia xẻ công đức của sự thực hành của ngài với tất cả chúng sanh và đặc biệt để hồi trả cho những thí chủ đã yêu cầu bài ca với một sự cúng dường. Về nội dung và hình thức của những bài ca được dịch trong cuốn sách này có những giới thiệu ngắn ở đầu mỗi đoạn.



Hãy để chương đầu này như một giới thiệu về chính Milarepa. Ở đây ngài đang ở trong tình huống thường xuyên đi khất thực từ một số dân làng nóng nảy và tình huống đó cũng dễ gây nổi giận : ngài sắp bỏ đi mà không ban cho một hồi hướng công đức như thông lệ thì sự phê bình của một nhà sư thúc đẩy ngài phải giải thích cách hồi hướng theo lối thiền đặc biệt của ngài và một số lịch sử riêng tư. Kỳ lạ vì người đi xin hùng biện khác thường này, họ hỏi danh tánh ngài. Mila trả lời với một phác lược cuộc đời trước kia của ngài, sự tu hành, những kinh nghiệm, những chứng ngộ và rồi dạy cho họ về thân phận sanh tử và cho những khuyên nhủ cho sự thực hành của họ. Câu chuyện này cũng kể lại sự gặp gỡ với Wangchuk Dorje, người đã trở thành một trong những đệ tử thường xuyên của Mila.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2021(Xem: 2096)
Các cộng đồng Phật giáo còn sót lại tại Cộng hòa Hồi giáo Pakistan đang trên nguy cơ diệt vong do thiếu cơ sở tự viện, chư tôn tịnh đức tăng già và Phật tử, sự hỗ của Chính phủ, theo một phái đoàn Phật tử gồm 5 thành viên từ huyện Naushahro Feroze, tỉnh Sindh, họ đã đến viếng thăm triển lãm Gandhara "Nguồn gốc và tuyến trình: Khám phá lịch sử đạo Phật và Kỳ Na giáo của Pakistan" (Roots or Routes: Exploring Pakistan’s Buddhist and Jain Histories) tại Bảo tàng Taxila gần Islamabad vào tuần trước; Bảo tàng Taxila, nơi lưu giữ một bộ sưu tập nghệ thuật Gandharan có ý nghĩa và toàn diện từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7.
15/10/2021(Xem: 1976)
Triều đại Joseon (1392-1910), một Vương quốc Nho giáo cực thịnh. Các quan chức, học giả Nho giáo đã đàn áp nghiêm trọng các tôn giáo khác như Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Vào thời kỳ ấy, nữ Hộ pháp Phật tử Chiêu Hiến Vương Hậu Trầm Thị (소헌왕후 심씨, 昭憲王后 沈氏, 1395-1446), Hoàng hậu của vị minh quân Phật tử Triều Tiên Thế Tông Đại vương vĩ đại (조선세종대왕, trị vì: 1418-1450) đều hộ trì chính pháp Phật đà, phát huy ánh đạo vàng Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực, Tự do, Bình đẳng trong việc quốc sách an dân.
15/10/2021(Xem: 2128)
Thiền viện Sương Nguyệt (상월선원, 霜月禪院) Vạn Hạnh Kết Xã (만행결사, 萬行結社), Thiền sư Từ Thừa (자승선사, 慈乘禪師), nguyên Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc, nguyên Chủ tịch Liên Tôn giáo châu Á vì Hòa bình (ACRP) đã chủ trì và tổ chức một cuộc họp báo cuộc "Hành hương Từ bi" (자비순례, 慈悲巡禮) tại tầng 5 của tòa hành chính, Đại học Dongguk vào ngày 14 tháng 7 vừa qua.
11/10/2021(Xem: 2383)
Hôm thứ Tư, ngày 6 tháng 10 vừa qua, một số ngôi già lam cổ tự ở thành phố lịch sử Ayutthaya, Thái Lan, Di sản Văn hóa Thế giới đã chìm trong biển nước, do mưa lớn làm ngập lụt diện rộng trên khắp Vương quốc Phật giáo này.
09/10/2021(Xem: 2102)
Theo sách hướng dẫn du lịch nổi tiếng 'Rough Guides', trong một cuộc thăm dò trực tuyến của quý độc giả đã bình chọn Vương quốc Phật giáo Campuchia là "đất nước thân thiện nhất thế giới".
09/10/2021(Xem: 2306)
Cư sĩ Shakti Sinha, một nhân vật cốt cán trong tổ chức Phật giáo lớn nhất của Ấn Độ đã thanh thản trút hơi thở về cõi Phật vào hôm thứ Hai, ngày 4/10/2021, hưởng thọ 64 tuổi. Cư sĩ Shakti Sinha là Tổng giám đốc Liên đoàn Phật giáo Quốc tế (International Buddhist Confederation, IBC).
08/10/2021(Xem: 2057)
Trong buổi lễ ký kết long trọng được tổ chức tại Trường Đại học Phật giáo Preah Sihanouk Raja (SBU), Preah Sisowath Quay, Phnom Penh, Campuchia; Giáo sư Preah Tepsattha Khy Sovanratana (MA), quyền Hiệu trưởng, Đại học Phật giáo Preah Sihanouk Raja, nữ Tiến sĩ Devyani Khobragade, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Ấn Độ tại Vương quốc Campuchia, đã ký biên bản ghi nhớ để thành lập Trung tâm CNTT tại Trường Đại học Phật giáo Preah Sihanouk Raja (SBU), cũng như cho Chi nhánh Tỉnh Battambang.
01/10/2021(Xem: 1926)
Nữ Phật tử, cô giáo Lý Phụng Khuê (이봉규), một cố vấn chuyên nghiệp tại trường Trung học Cơ sở Gwang-dong, thành phố Namyangju, Gyeonggi, Hàn Quốc, đã sử dụng "Tin nhắn gửi Cảm ơn" (감사노트) do báo Korean Buddhist News (불교신문) sản xuất và phân phối để thực hiện "Liệu pháp Tri ân" (감사테라피) 'Tâm lý học Tích cực' với một số cố vấn địa phương, nói rằng, nữ Phật tử Lý Phụng Khuê cảm thấy "Lòng biết ơn khiến chúng tôi cảm thấy hạnh phúc" và quyết định thử nó với các học sinh.
28/09/2021(Xem: 1992)
Ngày 27 tháng 9 vừa qua, Thủ tướng chính phủ Vương quốc Campuchia Hun Sen cho biết, quốc gia Phật giáo này sẽ là một điểm an toàn cho du khách quốc tế khi nước này mở cửa trở lại.
28/09/2021(Xem: 1903)
Hôm thứ Bảy, ngày 26/6/2021, Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Campuchia Hun Sen cho biết, đại dịch Covid-19 đã lây nhiễm gần một nửa số tự viện Phật giáo thủ đô Phnôm Pênh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567