Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Trung Á

24/12/201005:06(Xem: 5334)
Phật Giáo Trung Á
Phat Giao Trung A_Tran Quang Thuan



PHẬT GIÁO VÙNG TRUNG Á

 

PHẦN DẪN NHẬP

 

Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.

 

Yếu tố chung của những vùng đất ở vòng ngoài là gần biển, nhiều mưa, những con sông nước chảy quanh năm, thuận lợi cho việc trồng trọt, thương mãi, di chuyển. Trái lại tại vòng trong, biển Bắc Cực suốt năm hầu như đóng băng, mưa ít, di chuyển khó khăn. Tại phía nam, từ A Phú Hãn đến Miến Điện dãy núi Hindu-Kush và Hy Mã Lạp Sơn là một trường thành ngăn cách. Giữa hai khu vực đá đông lạnh và rừng núi cheo leo là vùng đất rộng do những con sông không chảy ra ngoài đại dương. Ba con sông lớn cắt Trung tâm Tây Bá Lơi Á, đó là sông Ob, sông Yenisei và sông Lena chảy về hướng bắc. Về phía tây, con sông Volga chảy đến đến biển Caspian, thu và phân phối nước cho một vùng rộng lớn hơn nước Hoa Kỳ. Về phía đông, con sông độc nhất chảy ra đại dương, đó là sông Amur chảy xuống biển Okhotsk, cuối cùng đến Thái Bình Dương . Tại phía nam sông Syr Darya (Jaxartes) và sông Amu Darya (Oxus) chảy đến biển Aral. Từ Mông Cổ sông Selenga chảy xuống hồ Baikal, sông Ili chảy xuống hồ Balkash. Một trong những con sông lớn cuối cùng chảy vào đất liên là sông Tarim chảy qua vùng sa mạc và cuối cùng ngưng lại tại vùng đất lầy lội quanh hồ Lop Nor.

 

Hình thể khác biệt nên thảo mộc ở những vùng này cũng khác nhau. Từ bắc đến nam có bốn vùng thảo mộc khác biệt. Phía bắc, thời tiết lạnh quanh năm, cỏ cây không mọc được ngoại trừ vào mùa hè ngắn ngủi, vài cụm hoa dại mọc trên sườn đá, trên những ngọn đồi nâu trọc . Ở đây chỉ có những con chồn Bắc cực sinh sống. Đi về hướng nam, vùng kế tiếp là vùng rừng núi chảy dài từ biển Baltic đến Thái Bình Dương, nơi sinh sống của con sóc, beo, những thú vật có lông dày, của những con hải cẩu, hải ly, chàng be. Vùng thứ ba xanh tươi hơi, đó là vùng đồng cỏ, chảy dài từ đông sang tây, từ Mãn Châu đến Hung Gia Lợi, nơi nhiều loài súc vật sinh sống, nhưng ở triền phía nam lại là nơi cằn cõi, núi đá, sa mạc. Những sa mạc như  Kara Kum, Kyayl Kum, Ust-Urt là những xa mạc trống vắng, u tịch nhất thế giới. Đi xa nũa về hướng nam lại là những dãy núi cao như Thiên Sơn, Côn Lôn Sơn, rồi sa mạc Taklamakan với con sông Tarim chảy ngang qua. Về hướng đông bắc giữa Mãn Châu và sa mạc Taklamakan là sa mạc Gobi, mưa ít, đất đai cằn cõi. Tiếp theo đó là vùng khí hậu tương đối điều hòa, nơi những nền văn minh nhân loại xuất hiện: văn minh Sumer, Akkad, Do Thái ở Cận Đông, văn minh Ai Cập, Syria, Canaan ở Trung Đông, văn minh Minoan, Mycenaen, văn minh Ấn Độ, Trung Hoa ở Á Châu, văn minh Hy Lạp, Ba Tư, La Mã v.v. . .

 

Giữa vùng đồng bằng, gần lưu vực sông, gần bờ biển và vùng sa mạc khô nắng cháy là vùng đồng cỏ chảy dài khắp lục địa Á Châu. Chính nơi đây - vùng đồng cỏ-  mà mọi biến thiên lịch sử đã xẩy ra. Dân ở đây là người sống trên lưng ngựa và chết trên lưng ngựa- “da ngựa bọc thây” - đi từ nơi này đến nơi khác trong vùng đất mênh mông đầy cỏ.  Sức mạnh của họ là di chuyển, di chuyển mau chóng trên lưng ngựa, di chuyển mau chóng trên những cỗ xe ngựa thường và xe ngựa chiến. Cánh đồng cỏ là xa lộ. Đế quốc của họ xây dựng không kiên cố , không sáng tạo mà chỉ là những liên minh tạm thời, lên xuống, thăng trầm nhanh chóng.

 

Tại sao phải xâm lăng nước ngoài ? Tại sao phải bành trướng lãnh thổ ? Tại sao xây dựng đế quốc ? Trong một xã hội nông nghiệp đây là phương thức trực tiếp và giản dị nhất mặc dầu tốn kém nhất về tài nguyên cũng như nhân mạng, để làm giàu. Kết quả từ thiên niên kỷ thứ hai trước kỷ nguyên đến giữa thế kỷ thứ hai, đế quốc chủ nghĩa là nấc thang đánh giá thành quả chính trị. Sau Cách Mạng Tín Học, kinh nghiệm cho thấy hòa bình là phương tiện hữu hiệu nhất để đạt được kết quả mong muốn.

 

Đế quốc Hittites. Vào thiên niên kỷ thứ hai trước kỷ nguyên tại Tây Á, các sắc tộc nói tiếng Ấn Độ- Âu Châu, gốc du mục, đồng cỏ, đã xâm nhập Tiểu Tế Á, thành lập nước Hittite, thủ đô đặt tại Hattusas (hiện nay là Boghazkoy, 110 dặn nh, phía đông Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ). Trong gần 200 năm họ là quyền lực đáng kể tại Trung Đông. Dân Hittites giỏi về chiến tranh, chiến xa của họ thật đáng sợ, nhưng họ không để lại tàn tích văn hóa nào đáng kể. Lịch sử của họ đã bị quên lãng suốt 3,000 năm cho mãi gần đây qua công trình nghiên cứu khảo cổ người ta mới nhắc lại một thời oanh liệt của dân tộc này.

 


pdf-icon
Phật Giáo Trung Á - Trần Quang Thuận



tranquangthuan
***

Nam Mô A Di Đà Phật,

Chân thành cảm ơn Giáo Sư Trần Quang Thuận

& Huynh Trưởng Nguyên Từ (Hưng)
đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này.
(Chủ biên Trang Nhà Quảng Đức, TT Thích Nguyên Tạng, 4-1-2017)










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2022(Xem: 3382)
Thầy Claude Anshin Thomas sinh năm 1947, gốc người Mỹ, Thiền giả, diễn giả, học giả về Công lý & Hòa bình, Giáo thụ Thiền học, nhà văn quốc tế, chiến sĩ hòa bình ủng hộ bất bạo động. Đến tuổi thanh xuân, Thầy từng là một cựu chiến binh Hoa Kỳ tham gia chiến tranh chống Cộng sản tại chiến trường Việt Nam. Khi về quê nhà Hoa Kỳ, sau những lần bệ kiến Thiền sư Thích Nhất Hạnh và kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp với Thiền sư Cư sĩ Bernie Glassman (1939-2018), vị Thiền giả, một nhà tiên phong nổi tiếng thế giới trong phong trào Thiền Phật giáo Hoa Kỳ, nhà lãnh đạo tinh thần, tác giả, nhà xuất bản, một nhà tiên phong trong Doanh nghiệp Xã hội Phật giáo bền vững; Thầy Claude Anshin Thomas đã nhận thức được ý nghĩa là hòa bình bất bạo động, biến súng đạn thành chất liệu Từ bi để hóa giải hận thù và năm 1995 Thầy xuất gia theo thiền phái Tào Động Phật giáo Nhật Bản, trở thành vị thiền giả nổi tiếng. Thầy truyền đạt giáo lý Thiền đạo Phật theo cách thức phi tôn giáo, trực tiếp và đúc
13/01/2022(Xem: 3234)
Cư sĩ WS Merwin, cựu Viện trưởng Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, một bậc thầy thơ đa năng người Mỹ, với nhiều phong cách khác nhau, đã sáng tác hơn 50 tác phẩm thơ và văn, nhiều tác phẩm chuyển dịch.Trong phong trào chống chiến tranh vào những thập niên 1960, các tác phẩm độc đáo của ông được đặc trưng bởi lối kể chuyện gián tiếp, không ngắt quãng. Trong những thập niên 1980-1990, việc sáng tác của ông lấy cảm hứng từ triết lý đạo Phật và sinh thái sâu sắc.
13/01/2022(Xem: 3003)
Moscow chưa bao giờ thiếu vắng Giáo đường. Trước cuộc Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, thậm chí còn có một biểu đạt đặc biệt, "bốn mươi bốn", được sử dụng để miêu tả số lượng Giáo đường trong thành phố (nghĩa là 40 nhân 40, tức là 1.600, hoặc chỉ "rất nhiều"). Ngày nay, Moscow có Giáo đường Chính thống giáo Nga, Công giáo La Mã, Anh giáo và Cộng đồng các Giáo hội Luther, cũng như các nhà thờ Hồi giáo và Hội đường Do Thái giáo. Hầu hết tất cả người Muscovite và du khách thập phương đến thành phố có thể nhìn thấy nơi thờ phụng cho riêng mình, ngoại trừ các Phật tử. Các thành viên tôn giáo này, một trong ba tín ngưỡng chính trên thế giới, chưa có một nơi thờ phụng ở Moscow.
11/01/2022(Xem: 2647)
Sự sụp đổ của Đế quốc Nga và sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Cộng sản là một tai họa khủng khiếp đối với đạo Phật. RIR - Russia Beyond đăng tin bằng tiếng Nga cho biết thời kỳ đen tối này bởi đạo Phật bắt nguồn từ Ấn Độ. Sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, Phật tử, cùng với các tín đồ tôn giáo khác là mục tiêu đàn áp của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Liên Xô (tân chính phủ). Vào đầu những thập niên 1940, khi các tôn giáo hoàn toàn bị biến mất, thực tế bởi không còn tu sĩ tôn giáo hay chùa chiền và nhà thờ, thánh đường nào nữa tại Liên Xô.
11/01/2022(Xem: 3117)
Nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) và kỷ niệm 30 năm ngày Thành lập Văn phòng Đại diện UNESCO tại Vương quốc Phật giáo Campuchia, một buổi tiệc chiêu đãi đối tác đã được tổ chức tại Văn phòng Đại diện UNESCO tại thủ đô Phnom Penh vào cuối tháng 12 năm 2021.
11/01/2022(Xem: 2367)
Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane (Sangha College in Vientiane, Laos) được thành lập vào năm 1929 (PL.2472), do Vương thân Phetsarath Rattanavongsa (1890-1959) và Trưởng lão Hòa thượng Somdet Phra oukeo Outhen Sakda, Tăng thống Vương quốc Phật giáo Lào và Thống đốc Vientiane kiến lập.
08/01/2022(Xem: 3733)
Đại học Phật giáo Nālandā Malaysia -Giáo dục toàn diện, Phát triển Con người toàn diện" (Nālandā Institute Malaysia -Holistic Education for Integral Human Development). Đại học Phật giáo Nālandā Malaysia (NIM) đã được hình thành vào tháng 01 năm 2006, nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng Phật giáo, để có một cơ sở giáo dục Phật giáo tại Malaysia. Cố vấn tinh thần cho Hội Phật giáo Nālandā, Hòa thượng Tiến sĩ Kirinde Sri Dhammananda Nayaka Thera đáng kinh, đã cho thấy sự ủng hộ rõ ràng với ý tưởng của Ngài.
08/01/2022(Xem: 6116)
Taxila: Trong một cuộc khai quật một Bảo tháp Phật giáo tại Ban Faqiran, nhà Khảo cổ học của Bộ Liên bang Khảo cổ học đã phát hiện đồ cổ quý hiếm, trong đó có một đồng xu bằng đồng từ thời Vương triều Mughal, một đế quốc Hồi giáo (chịu ảnh hưởng từ nền văn hoá Ba Tư) ở Tiểu lục địa Ấn Độ đã ra đời vào năm 1526, nắm quyền kiểm soát trên phần lớn tiểu lục địa trong các thế kỷ 17 và 18, và cáo chung vào giữa thế kỷ 19.
08/01/2022(Xem: 3221)
Ung Chính lên ngôi lấy hiệu "Thuận Trị Hoàng đế, 順治皇帝" từ nhỏ đã thích đọc kinh sách Phật giáo, quảng giao tăng chúng, tinh thông Phật lý. Vua học thiền với Quốc sư Chương Gia, được hướng dẫn Thiền tọa liên tục trong hai ngày, đương thời Quốc sư Chương Gia (章嘉國師) khen ngợi vua có Chủng Tính Tối Thượng Thừa, khuyến khích bế quan nhập Thất Thiền tu, 14 ngày đêm miên mật tham cứu công án thoại đầu...
08/01/2022(Xem: 5016)
Bengal cổ đại là một trung tâm chính của Phật học, nghệ thuật và chủ nghĩa đế quốc; quả thực, đạo Phật là nền tảng của di sản văn hóa và ngôn ngữ của Bengal - bài thơ đầu tiên ở Bengali là Charyapada, được sáng tác bởi Chư tôn thiền đức Tăng già Phật giáo thời bấy giờ. Các Charyapada là tập hợp các bài thơ Thần kỳ, những bài tán thán sự chứng ngộ trong Kim Cương thừa truyền thống của Phật giáo mật tông ở các nơi Assam, Bengal, Bihar và Orissa. Theo các học giả đương đại, thuật ngữ Dharma trong tiếng Bengal có nghĩa là "Bauddha Dharma" (Buddhadharma) hoặc Phật pháp (佛法) và thuật ngữ Dharmapuja có nghĩa là "Buddhapuja". Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ, nơi trú ẩn cuối cùng của Phật giáo là ở Bengal.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567