Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những khó khăn trong đời sống tôn giáo của du học tăng tại Trung Quốc

08/04/201312:48(Xem: 4646)
Những khó khăn trong đời sống tôn giáo của du học tăng tại Trung Quốc

 

buddhism_in_china7aec259ed5dabaedb099NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO
CỦA DU HỌC TĂNG TẠI TRUNG QUỐC

-Thích Giải Hiền-
Nghiên Cứu Sinh
Thạc Sĩ Đông Nam Á Học

---o0o---

Sau đổi mới 1986, nền giáo dục đã mở rộng cửa cho Tăng ni sinh đặt chân đến học đường. Các trường học không phân biệt đối xử với Tăng ni sinh khi ghi danh vào học như trước đây. Điều này đã thúc đẫy phần nào số lượng Tăng ni theo học tại các trường Đại học trong cả nước ngày một tăng. Phương thức giáo dục của Tăng ni sinh hiện nay càng thêm phong phú: từ trường Phật học, các khoá đào tạo chuyên ngành ngắn dài hạn, đến các khoa ngành học tại các trường Đại học công và tư trong cả nước.

Cùng với xu thế mới đó, số lượng Tăng ni sinh đi du học tại các nước và khu vực ngày càng gia tăng. Trong đó, nhiều nhất là Ấn Độ , Đài Loan, Trung Quốc đại lục rồi đến Nhật Bản, Úc, Pháp và Mỹ cùng các nước Phương tây khác. Đây là dấu hiệu phát triển của Phật giáo Việt Nam hay không còn tuỳ cách nhìn và đánh giá của mỗi người, nhưng về phương diện tiếp nhận giáo dục tri thức là một chuyển biến lớn của Phật Giáo Việt Nam. Trong bài viết này, người viết muốn nhìn lại những khó khăn của Tăng ni sinh du học tại Trung Quốc trong đời sống Tôn giáo với cái nhìn và cảm nhận của cá nhân (cũng có thể những du học Tăng ni sinh tại Trung Quốc không cho đó là khó khăn mà là cơ hội tốt).

I.HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHẬT GIÁO KHÔNG PHÁT TRIỂN

Phật giáo Trung Quốc trong thời gian dài không phát triển, lại bị Cách mạng Văn Hoá triệt tiêu nên gần như không tồn tại (đúng thực nghĩa Phật giáo)ở Trung Quốc trước thời kỳ cải cách mở cửa. Từ những năm 80 đến nay Phật giáo Trung Quốc mới bắt đầu giai đoạn khôi phục nên hệ thống giáo dục của Phật giáo Trung Quốc còn rất yếu. Cả nước chỉ có một vài Học Viện nhưng chủ yếu là đào tạo cho lớp Tăng ni trẻ mới xuất gia ở Trung Quốc. Sự khôi phục các Học Viện ở Trung Quốc phần lớn là tâm nguyện sự đóng góp tài chánh từ các bậc Trưởng Lão và Phật tử Đài Loan. Phật học viện ở Trung Quốc không tiếp nhận du học Tăng ni sinh ở nước ngoài vào học (cũng giống như các trường Phật học ở Việt Nam ngày nay vì không được Ban Tôn Giáo Chính Phủ cho phép)mà chủ yếu đào tạo Tăng ni trong nước. Hiện nay mới chỉ có Phật Học Viện Nam Phổ Đà, Hạ Môn, Phúc Kiến lớp Ni có nhận bốn Ni sinh Việt Nam đang theo học chương trình tương đương như trong cấp Phật học ở Việt Nam. Nhìn chung trình độ Phật học viện Trung Quốc chưa được hoàn thiện như các trường Cao Đẳng và Học Viện Phật giáo ở Việt Nam (ngoài trừ môn tiếng Hán phổ thông).Vì vậy các Học Viện tại Trung Quốc hiện nay vẫn chưa là môi trường du học theo như mong ước của Tăng ni sinh Việt Nam. Đây là một khó khăn của Tăng ni sinh du học tại Trung Quốc vì không thể học tiếp lên cao hơn được về Phật học, trong hệ thống giáo dục Phật giáo của Trung Quốc ngày nay.

II.NIỀM TIN TÔN GIÁO RẤT THẤP TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRUNG QUỐC.

Trong cuộc sống của những du học Tăng ni một trở ngại to lớn đó chính là trong đời sống xã hội của người dân Trung Quốc hiện nay niềm tin Tôn giáo gần như không hiện hữu (người viết hiện chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng qua tiếp xúc có thể thấy con số này là khoảng 60%). Họ không hiểu Phật giáo là gì ? Ăn chay là sao? Và Tăng sĩ là người như thế nào? Nên họ thường nhìn tu sĩ với ánh mắt ngạc nhiên, dò hỏi và xa lạ. Ngoài xã hội cũng vậy và trong học đường cũng thế, Thầy cô giáo và Sinh viên Trung Quốc thường không hiểu người tu sĩ là “hạng người” gì trong xã hội, họ không biết cánh xưng hô với người tu sĩ và thường là né tránh “ Kính nhi viễn chi”.

Các Tăng ni Việt Nam sang Trung Quốc du học hiện nay tập trung nhiều nhất là ở Quảng Tây như : trường Đại học sư phạm Quảng Tây - Quế Lâm, trường Cao Đẳng Dân Tộc Quảng Tây- Nam Ninh, trường Cao đẳng Sư Phạm Quảng Tây -Nam Ninh, trường Đại học Phước Châu Phúc Kiến. Ngoài ra một số ít đang học tại trường Đại học Trịnh Châu-Hà Nam, trường Đại học Vân Nam-Côn Minh, trường Đại học Hạ Môn-Phúc Kiến, trường Đại học Trung Sơn-Quảng Châu. Vì không thể theo học chương trình Phật học ở các Phật học viện (trừ bốn ni sinh đang học tại Phật học viện Nam Phổ Đà-Hạ Môn)các vị đều phải theo học chương trình tiếng Hán hiện đại (tiếng phổ thông),tiếng Hán cổ đại (cổ văn),Triết Học Mác-Lê, Tôn giáo học (dưới quan điểm của Trung Quốc)tại các trường Đại học bên ngoài. Cuộc sống trong học đường và ở bên ngoài thường là các Thầy Cô và bạn học ngại ngùng và xa lánh tu sĩ. Do vậy khi sang Trung Quốc học các vị đã gặp trở ngại về giao tiếp trong cuộc sống, nên các Tăng ni sinh hệ phái khất sĩ (Vì hệ phái không cho phép)nên quí vị vẫn giữ hình thức tu sĩ trong suốt thời gian du học, các chư Ni cũng giữ nguyên hình thức tu sĩ trong thời gian du học tại Trung Quốc (vì Ni bộ không cho phép), còn lại các Thầy Tăng sĩ Bắc tông (với tinh thần Bồ tát đại thừa nhập thế cứu đời)phần lớn khi sang học tại Trung Quốc (nhất là tại trường Đại học Sư Phạm Quảng Tây - Quế Lâm) đều để tóc và mặc đồ đời để nhập thế du học. Đã để tóc, bận đồ thế tục với môi trường chay tịnh ít ỏi như vậy thì việc giữ gìn đời sống Tôn giáo đòi hỏi một nội lực thâm hậu mới có thể chịu đựng nổi. Thời gian du học thường là năm bảy năm trời không biết có làm đạo tâm bị thương tổn không, Thầy tổ và Phật tử bên quê nhà có lo lắng và kỳ vọng không ? Đây có phải là một khó khăn nữa trong đời sống Tôn giáo của quí vị khi sang du học tại Trung Quốc không ? Hay là cơ hội ngàn năm có một để nhập thế hiểu đời của tu sĩ chúng ta khi được đi du học ? Câu hỏi này chắc sẽ có nhiều đáp án và cũng lắm ưu tư.

III.MỘT VÀI ĐỐI XỬ KHI RA VÀO CỬA KHẨU VÌ TƯ TƯỞNG XEM TU SĨ LÀ CÔNG NHÂN HẠNG HAI.

Trong quá trình du học, người tu sĩ đã gặp phải những khó khăn như vậy trong đời sống thường nhật, là Tu sĩ nhưng sống trong môi trường không Tôn giáo chắc ai là tu sĩ mới hiểu được cái mùi vị này của cuộc sống và càng cảm thông với khó khăn của Tăng ni sinh đang du học tai Trung Quốc “ Như nhơn ẩm thủy lãnh noãn tự tri”. Trong quá trình du học nhiều năm như vậy sẽ có không ít lần phải về quê nhà vì nhiều lý do chính đáng khác nhau. Vốn liếng của người học trò dù là thân phận nào (Tu sĩ hay người đời)đó chính là sách vở, phải nhịn ăn, nhịn tiêu để tiền mua, hay photo những sách hay, sách quí làm tư liệu học tập nghiên cứu cho bản thân, cho anh em huynh đệ ở quê nhà và làm phong phú hơn cho nguồn tri thức của dân tộc chúng ta. Nhưng khi gom góp của báu tri thức ấy đặt chân đến cửa ngõ quốc gia (Hải quan)thì cùng là lưu học sinh nhưng các sinh viên bình thường thì được đem sách vở đã mua vào tổ quốc, còn tu sĩ thì phải bị chặn lại và lục soát hết tất cả những sách vở đã đem về. Cũng là cuốn sách học giống nhau, một nhà xuất bản, một tác giả, một nội dung nhưng vì người cầm nó thân phận khác nhau ; Là tu sĩ (công dân hạng hai)nên cuốn sách cũng bị đối xử khác khau. Người tu sĩ khi nào mới được xem là công dân thật sự ? Được hưởng quyền bình đẳng trước pháp luật ? Đây là trăn trở của biết bao người chỉ vì niềm tin tín ngưỡng của mình mà bị xã hội đối nhìn với ánh mắt khác thường. Mặc dầu họ là người có niềm tin Tôn giáo nhưng họ vẫn là công dân tốt của xã hội chứ ? Điều này đang là niềm trăn trở và mong đợi của biết bao người có niền tin tín ngưỡng trong xã hội hiện nay.

Bao nhiêu khó khăn như vậy nhưng người tu sĩ vẫn không nản lòng cần cầu tri thức cho bản thân và cho sự nghiệp hoằng pháp tương lai.

Thầy tổ, Phật tử và xã hội có cảm thông cùng giúp đỡ họ hay không ? Đây chính là niềm an ủi mà du học Tăng rất cần trong hành trình du học hiện nay và mãi mãi về sau.

Cảm xúc và suy nghĩ được viết ra đây chỉ là suy tư của cá nhân người viết cũng chưa hẳn là nỗi lòng của tất cả du học Tăng Việt Nam ngày nay.

--o0o--

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 13168)
Hôm nay là ngày 20 tháng 6 năm 2001 nhằm ngày 29 tháng 4 nhuần năm Tân Tỵ, tôi chắp bút bắt đầu viết quyển sách thứ 32 nầy trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm nay. Hôm nay cũng là ngày rất đẹp trời. Vì mấy tháng nay, mặc dầu đã vào hạ; nhưng bầu trời vẫn vần vũ bóng mây, như dọa nạt thế nhân là ánh sáng của thái dương sẽ không bao giờ chan hòa đến quả địa cầu nầy nữa.
10/04/2013(Xem: 9650)
Sau 30 năm sinh hoạt Phật sự tại Đức, tôi ngồi tính sổ lại thời gian, nhân duyên, cơ hội cũng như những phạm trù khác để gởi đến quý Phật Tử xa gần, với những người lâu nay hằng hộ trì cho Phật pháp tại Đức nói riêng và các nơi khác tại Âu Châu cũng như trên thế giới nói chung với tinh thần của người con Phật và với tư cách là một Trưởng Tử của Như Lai.
10/04/2013(Xem: 5342)
Khi Koryeo đang chịu cảnh cực khổ vì quân Mông Cổ xâm lược Koryeo, người Koryeo đã khắc lẽ phải trên gỗ. Cứ khắc một chữ trên gỗ là người Koryeo đã cúi lạy ba lần. Hơn 50 triệu chữ và kiểu khắc chữ của toàn bộ các chữ đều giống nhau y như từ một người viết. Cũng không có chữ nào bị lỗi và bị bỏ sót. Đây chính là ‘Cao Ly Đại Tàng Kinh’. Nó là Đại Tàng Kinh cổ nhất hiện đang tồn tại trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 3930)
Chuyến hoằng pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan vào tháng 6 năm 2007 là một duyên lành, không chừng là lần cuối của Ngài, do tuổi hạc đã cao và một lịch trình sinh hoạt hằng năm ở khắp nơi trên thế giới đầy kín.
10/04/2013(Xem: 4074)
Thật là một đại hoan hỉ khi chúng tôi xin thưa với quý vị Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sẽ trở lại Úc vào ngày 11 /06/2008 để thuyết pháp trong năm ngày tại Sydney
10/04/2013(Xem: 7731)
Cali Today News - Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nhà lãnh đạo tôn giáo và cũng là nhà lãnh đạo lưu vong Tây Tạng nói: "Dân tộc Việt Nam rất anh hùng rất đáng kính trọng. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp hơn cho Việt Nam" . Ngài đã nói như vậy khi "phái đoàn" của Nhật báo Việt Báo đến viếng thăm Ngài vào ngày 14 Tháng 9, 2006 tại Pasadena, California.
10/04/2013(Xem: 5637)
Mạc Tư Khoa, Nga – “Thi thể của Giáo trưởng Lạt ma Itigelov đã được khai quật vào ngày 10 tháng 9, năm 2002, trong khu nghĩa trang gần thành phố Ulan Ude (Liên Bang Nga). Lạt ma thị tịch và được an táng vào năm 1927, và việc khai quật này đã được thực hiện với sự hiện diện của thân nhân, viên chức, và chuyên gia.”
10/04/2013(Xem: 4609)
Có một nhà sư rất khiêm tốn, chỉ tự nhận là một người tu hành, một nhà sư Phật giáo mà thôi. Ngài tên là Tenzin Gyatso, sinh năm 1935. Nhưng người ta lại gán cho Ngài cái tước hiệu là Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIV, và Ngài đã nhận giải Nobel Hoà Bình vào tháng 9 năm 1989. Ngài rất yêu thương con người, nhân loại và dân tộc của Ngài.
10/04/2013(Xem: 4885)
Đêm Hy Mã Lạp Sơn vang lên tiếng chó sủa. Ánh sáng lập lòe bên kia sườn đồi. Dưới vòm trời sao, trên lối mòn tăm tối giữa những hàng thông, một nhóm người hành hương trong y phục tả tơi đang bước đi, miệng lẩm bẩm cầu kinh. Ngay trước lúc rạng đông, khi những đỉnh núi tuyết ở phía sau nhuộm màu hồng đậm, đám đông ở bên ngoài ngôi chùa Namgyal ba tầng ở Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ, trở nên yên lặng.
10/04/2013(Xem: 8936)
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]