Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cung Tán Công Hạnh Sư Ông thượng Hành hạ Sơn (1908-1989)

22/10/202406:56(Xem: 815)
Cung Tán Công Hạnh Sư Ông thượng Hành hạ Sơn (1908-1989)

ht thich hanh son-1908-1989


Cung Tán Công Hạnh
Sư Ông thượng Hành hạ Sơn 

Hành Sơn Hoà Thượng nguyện uyên thâm 
Kiến lập thiền môn độ chúng trần
An Lạc Hội An lưu tuệ ấn
An Hoà Đức Dục trải từ tâm 
Cô nhi dưỡng dạy khơi nguồn sáng
Tăng chúng độ trì mở suối an 
Pháp Hội, Viên Minh vun đắp hạnh 
Đại An Thạch Trụ chí cao ngàn…!

Sài Thành, 2:30 sáng 21-10-2024
Pháp Tôn-Thích Chúc Hiền ( Khể thủ kính đề)





HT Thich Hanh Son-1908-1989-1
Tiểu Sử
Hòa Thượng THÍCH HÀNH SƠN


Hòa Thượng thế danh Lê Đình Nam, sinh năm Mậu Thân (1908) trong một gia đình trung nông, có truyền thống Nho học. ở làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Lê Văn Thơ, Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mới.

Những năm đầu của thập niên 40, Ngài mới có nhân duyên gặp Phật Pháp và cũng trong thời gian này Ngài cùng với người anh là Lê Trọng Hoàng, em là Lê Tấn Phước cùng với Phật tử Nguyễn Quế phát tâm sáng lập chùa Đại An tại quê nhà vào năm 1944.

Năm Ất Mùi (1955) Ngài thọ Tam Quy – Ngũ Giới với Hòa Thượng Thích Trí Giác tại Tổ đình Phước Lâm – Hội An với Pháp danh Thị Hải.

Năm Canh Tý (1960) thấu rõ được lẽ vô thường của nhân sinh thế cuộc, Ngài phát tâm xuất gia với Hòa thượng Thích Giải An tại chùa Thọ Sơn, tỉnh Quảng Ngãi với pháp tự Hành Sơn. Sau hai năm thờ thầy học đạo, Ngài được Hòa thượng Bổn Sư cho thọ giới Cụ Túc tại Đại Giới Đàn do Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tổ chức tại Phật Học Viện Sài Gòn, chùa Ấn Quang vào ngày mùng 2 tháng 8 năm Nhâm Dần (1962). Sau khi thọ Cụ Túc giới, Ngài lưu lại Sài Gòn ở chùa Giác Nguyên – Vĩnh Hội (nay là Quận Tư) để tu học một thời gian và  tham dự An Cư Kiết Hạ tại dây.

Sau khi về lại quê nhà, Ngài được Giáo Hội Quảng Nam cùng Phật tử Quế Sơn thỉnh làm trụ trì chùa Viên Minh, làng Trung Lộc, xã Sơn Phúc, quận Đức Dục (Nay là xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam). Ở đây, Ngài nỗ lực tu tập, tiếp tăng độ chúng và phát triển Phật Pháp rộng ra các vùng phụ cận như Trung Phước, Đại Bình, Khương Quế, Nông Sơn, Sơn Ninh, Sơn Thuận (tức Quế Ninh, Quế Phước).

Năm 1965, chiến tranh lan rộng nên Ngài về lánh nạn tại Hội An. Đến năm 1966, Ngài cùng với chư tôn đức lãnh đạo GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam thành lập chùa An Lạc tại trại định cư Thanh Đông (nay thuộc phường Thanh Hà, Hội An).

Cũng trong thời gian này, Ngài lên khu kỹ nghệ An Hòa, quận Duy Xuyên khai sơn ngôi chùa An Hòa. Tiếp đó, Ngài khai sơn chùa Nông Sơn, chùa Minh Giác và được cử làm Chánh Đại Diện Phật Giáo quận Đức Dục. NĂm 1968, chiến sự diễn ra mỗi lúc càng khốc liệt, nạn nhân mỗi ngày càng nhiều, được sự ủy nhiệm của tỉnh Giáo Hội Quảng Nam, Ngài đứng ra thành lập Cô Nhi Viện An Hòa và làm Giám Đốc, nhận nuôi nấng các trẻ em mồ côi và giúp cho các nạn nhân chiến tranh.

Năm 1971, chùa An Hòa và Cô Nhi Viện An Hòa bị kẻ lạ mặt dùng pháo và súng liên thanh tấn công vào ban đêm, làm chết một vị tăng và nhiều trẻ em mồ côi. Riêng thầy bị thương nặng, phải chuyển về chữa trị tại Bệnh Viện Duy Tân – Đà Nẵng.

Sau khi phục hồi sức khỏe, được sự chỉ đạo của Tổng vụ Từ Thiện Xã Hội Giáo Hội Trung Ương, Hòa Thượng quyết định chuyển dời Cô Nhi Viện về tại khuôn viên chùa Pháp Hội, An Hải Đông – quận 3 Đà Nẵng, Ngài tiếp tục nhiệm vụ Giám Đốc và nuôi dạy trẻ mồ côi.

NĂm 1972, Ngài được thỉnh cử làm trụ trì chùa Pháp Hội, Hòa Thượng đã trùng kiến toàn bộ ngôi chùa này.

Năm 1975 đất nước hòa bình thống nhất, Ngài bàn giao Cô Nhi Viện An Hòa cho Nhà Nước, nghỉ chức Giám Đốc Cô Nhi Viện, chi giữ lại chức vụ trụ trì chùa Pháp Hội.

Vào tháng 3 năm 1975, người dân lánh nạn chiến tranh lần lượt trở về quê cũ. Hòa Thượng trở lên Quế Lộc xây dựng lại ngôi chùa Viên Minh để kịp thời có chỗ cho chư Tăng và Phật tử tu tập, phụng sự Đạo pháp. Sau đó, Ngài giao lại cho đệ tử là thầy Đồng Châu làm trụ trì, Ngài trở về tiếp tục điều hành Phật sự tại chùa Pháp Hội, đồng thời về quê nhà củng cố lại chùa Đại An.


Năm 1986, vì tuổi cao sức yếu. Ngài bàn giao chùa Pháp Hội cho Phật tử tập đảm nhiệm, Ngài lui về chùa Đại An ven đồi núi quê nhà để an dưỡng tu niệm.

Đầu năm Kỷ Tỵ (1989) tự thấy mình tuổi đã cao, sức đã yếu, biết không còn sống được bao lâu nữa, nên Ngài thu xếp mọi việc để chuẩn bị cho chuyến đi xa. Dự tri thời chí, vào lúc 18 giờ, Ngài an nhiên viên tịch. Trụ thế 83 tuổi, 28 Hạ Lạp.


Cố HT.Thích Hành Sơn (1908-1989) được biết đến là vị giáo phẩm đã trùng kiến và xây dựng 5 ngôi chùa, một Trung tâm cô nhi An Hòa trước đây ở Quảng Nam.


Hòa thượng có thế danh là Lê Đình Nam, sinh năm 1908, người làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh), TP.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình trung nông có truyền thống Nho học.

Tuổi trẻ của Hòa thượng gắn liền với phong trào kháng chiến giành độc lập dân tộc. Đầu thập niên 1940, người thanh niên Lê Đình Nam mới có nhân duyên đến với Phật pháp và đã sớm có ý thức Phật hóa gia đình, kêu gọi anh em trong gia đình cùng với một số Phật tử phát tâm sáng lập chùa Đại An tại huyện Phú Ninh (1944).

Sau khi quy y với HT.Thích Trí Giác tại tổ đình Phước Lâm (TP.Hội An) và được bổn sư ban cho pháp danh là Thị Hải, năm Canh Tý (1960), Hòa thượng đã phát tâm xuất gia với HT.Thích Như Bình (tức HT.Thích Giải An) tại chùa Thọ Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), được ban pháp tự là Hành Sơn, và cho thọ giới Sa-di. Hai năm sau, Hòa thượng được thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn do Giáo hội Tăng-già Nam Việt tổ chức tại chùa Ấn Quang. Hòa thượng được lưu lại Sài Gòn ở chùa Giác Nguyên - Vĩnh Hội trong hai mùa an cư kiết hạ.

Sau đó Hòa thượng được cung thỉnh về làm trụ trì chùa Viên Minh (làng Trung Lộc, xã Sơn Phúc, nay là huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam). Từ đây Hòa thượng đã nỗ lực tu tập, tiếp Tăng, độ chúng và hoằng dương Phật pháp rộng ra các vùng lân cận như Trung Phước, Đại Bình, Khương Quế, Nông Sơn, Sơn Ninh, Sơn Thuận; Hòa thượng đã thế độ cho hàng chục vị đệ tử xuất gia như Đồng Hòa, Đồng Nghĩa, Đồng Hào, Thị Nguyên, Như Hoàng, chư Ni như Diệu Hương, Diệu Quả...

Năm 1966, Hòa thượng lập ngôi chùa An Lạc (tại TP.Hội An), tại đây Hòa thượng cũng đã thế độ cho một số người xuất gia trong đó có Đồng Huy (tức TT.ThíchThiện Toàn), Đồng Thiện, Đồng Tiến, Đồng Ngộ, Đồng Lực…

Năm 1968, cuộc chiến tranh đến thời kỳ ác liệt cao điểm, nạn nhân bị bom đạn mỗi ngày một tăng, Hòa thượng đứng ra lập cô nhi viện An Hòa. Nhưng do Hòa thượng bị tai nạn nên dự án chậm lại. Sau khi phục hồi sức khỏe, Hòa thượng đảm nhiệm Tổng vụ Từ thiện xã hội GHPGVNTN tại Trung Phần và quyết định dời cô nhi viện An Hòa về khu vực quận 3 (cũ), An Hải Đông, TP.Đà Nẵng. Năm 1972, Hòa thượng được thỉnh cử làm trụ trì chùa Pháp Hội và trùng kiến lại toàn bộ ngôi chùa này.

Sau ngày đất nước thống nhất, Hòa thượng về vùng đất Quế Lộc (Quế Sơn, Quảng Nam) xây dựng lại ngôi chùa Viên Minh để có nơi cho người dân cùng Phật tử lánh nạn trở về có nơi tu tập.

Trong hoàn cảnh đặc biệt, nhưng HT.Thích Hành Sơn vẫn luôn nỗ lực hoằng hóa độ sanh. Trong vòng 30 năm, Hòa thượng đã trùng kiến và xây dựng 5 ngôi chùa, cùng với cô nhi viện An Hòa.


Chua An Lac-ht hanh son
Chùa An Lạc do HT.Thích Hành Sơn khai sơn năm 1966


Đầu năm 1989, xét thấy mình tuổi cao, sức khỏe yếu dần, Hòa thượng đã về đảnh lễ Tổ, đi thăm viếng các ân nhân, thăm hỏi đệ tử sau đó an nhiên thị tịch vào ngày 22-11 âm lịch.

Được biết, sắp tới nhân kỷ niệm 25 năm ngày cố HT.Thích Hành Sơn viên tịch, môn đồ pháp quyến và các hàng đệ tử của Hòa thượng sẽ tổ chức lễ tưởng niệm, tri ân vào ngày 21-11 âm lịch tại chùa An Lạc, TP.Hội An, tỉnh Quảng Nam, một trong những nơi đã lưu dấu hành đạo của Hòa thượng.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2013(Xem: 6049)
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
11/04/2013(Xem: 11371)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
10/04/2013(Xem: 7865)
Ngày 15-2-1965, tôi và thầy Chơn Thanh cũng như các học Tăng khác từ các nơi tập trung về Phật học viện Huệ Nghiêm dự thi tuyển vào khóa II của Phật học viện. Thầy thì từ Phật học đường Phổ Quang Gia Định đến, tôi thì từ Phật học đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh lên, tất cả cùng một chí hướng, một mục đích và một ước nguyện là thi đậu vào Phật học viện. Kết quả, thầy thi đậu lớp Sơ trung 2, tôi thi đậu vào lớp Sơ trung 1
10/04/2013(Xem: 9734)
Kính dâng Hoà Thượng Thích Tịch Tràng, để nhớ công ơn giáo dưỡng - Tôi ra thắp nhang nơi tháp mộ của Người, ngồi bên tháp rêu phong, vôi vữa đã lở ra từng mảng, đường nét đơn sơ giản dị như cuộc đời giản dị của Thầy, lòng chợt bâng khuâng nhớ thương thầy vô hạn. Tôi tự hỏi: “Động cơ nào đã thôi thúc Thầy nguyên là một vị giáo sư Pháp văn ưu tú con nhà quý tộc ở xứ Quảng, lại cắt ngang con đường công danh sự nghiệp, để vào đây nối bước theo chân Tổ mà nối đuốc đưa mọi người qua khỏi bóng đêm vô minh dày đặc và biến nơi đây thành một quê hương tâm linh cho tất cả ngưỡng vọng hướng về”.
10/04/2013(Xem: 8992)
Một sinh thể đã xuất hiện trong cuộc đời như chưa từng có, đến lúc từ giã ra đi cũng thật nhẹ nhàng như cánh nhạn lưng trời. Vốn xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, được bẩm thụ cái gen của tổ phụ từng nổi tiếng văn chương, lại hấp thụ tinh hoa của địa linh sông Hương, núi Ngự - một vùng đất được xem là cái nôi của văn hóa Phật giáo miền Trung. Khi trưởng thành, thể hiện phong thái của một bậc nữ lưu tài sắc vẹn toàn, nhưng túc duyên thôi thúc, sớm rõ lẽ vô thường, dễ dàng từ bỏ cảnh phú quí vinh hoa, hâm mộ nếp sống Thiền môn thanh đạm.
10/04/2013(Xem: 6788)
Cư sĩ Tâm Minh- Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-nay là tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan.Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự đức.
10/04/2013(Xem: 7241)
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
10/04/2013(Xem: 11377)
Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD.
10/04/2013(Xem: 7057)
Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.
10/04/2013(Xem: 12193)
Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết - Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap - Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sau Tương chao nhà quê Tăng Lữ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]