Hòa Thượng thế danh Lê Đình Nam, sinh năm Mậu Thân (1908) trong một gia đình trung nông, có truyền thống Nho học. ở làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Lê Văn Thơ, Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mới.
Những năm đầu của thập niên 40, Ngài mới có nhân duyên gặp Phật Pháp và cũng trong thời gian này Ngài cùng với người anh là Lê Trọng Hoàng, em là Lê Tấn Phước cùng với Phật tử Nguyễn Quế phát tâm sáng lập chùa Đại An tại quê nhà vào năm 1944.
Năm Ất Mùi (1955) Ngài thọ Tam Quy – Ngũ Giới với Hòa Thượng Thích Trí Giác tại Tổ đình Phước Lâm – Hội An với Pháp danh Thị Hải.
Năm Canh Tý (1960) thấu rõ được lẽ vô thường của nhân sinh thế cuộc, Ngài phát tâm xuất gia với Hòa thượng Thích Giải An tại chùa Thọ Sơn, tỉnh Quảng Ngãi với pháp tự Hành Sơn. Sau hai năm thờ thầy học đạo, Ngài được Hòa thượng Bổn Sư cho thọ giới Cụ Túc tại Đại Giới Đàn do Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tổ chức tại Phật Học Viện Sài Gòn, chùa Ấn Quang vào ngày mùng 2 tháng 8 năm Nhâm Dần (1962). Sau khi thọ Cụ Túc giới, Ngài lưu lại Sài Gòn ở chùa Giác Nguyên – Vĩnh Hội (nay là Quận Tư) để tu học một thời gian và tham dự An Cư Kiết Hạ tại dây.
Sau khi về lại quê nhà, Ngài được Giáo Hội Quảng Nam cùng Phật tử Quế Sơn thỉnh làm trụ trì chùa Viên Minh, làng Trung Lộc, xã Sơn Phúc, quận Đức Dục (Nay là xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam). Ở đây, Ngài nỗ lực tu tập, tiếp tăng độ chúng và phát triển Phật Pháp rộng ra các vùng phụ cận như Trung Phước, Đại Bình, Khương Quế, Nông Sơn, Sơn Ninh, Sơn Thuận (tức Quế Ninh, Quế Phước).
Năm 1965, chiến tranh lan rộng nên Ngài về lánh nạn tại Hội An. Đến năm 1966, Ngài cùng với chư tôn đức lãnh đạo GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam thành lập chùa An Lạc tại trại định cư Thanh Đông (nay thuộc phường Thanh Hà, Hội An).
Cũng trong thời gian này, Ngài lên khu kỹ nghệ An Hòa, quận Duy Xuyên khai sơn ngôi chùa An Hòa. Tiếp đó, Ngài khai sơn chùa Nông Sơn, chùa Minh Giác và được cử làm Chánh Đại Diện Phật Giáo quận Đức Dục. NĂm 1968, chiến sự diễn ra mỗi lúc càng khốc liệt, nạn nhân mỗi ngày càng nhiều, được sự ủy nhiệm của tỉnh Giáo Hội Quảng Nam, Ngài đứng ra thành lập Cô Nhi Viện An Hòa và làm Giám Đốc, nhận nuôi nấng các trẻ em mồ côi và giúp cho các nạn nhân chiến tranh.
Năm 1971, chùa An Hòa và Cô Nhi Viện An Hòa bị kẻ lạ mặt dùng pháo và súng liên thanh tấn công vào ban đêm, làm chết một vị tăng và nhiều trẻ em mồ côi. Riêng thầy bị thương nặng, phải chuyển về chữa trị tại Bệnh Viện Duy Tân – Đà Nẵng.
Sau khi phục hồi sức khỏe, được sự chỉ đạo của Tổng vụ Từ Thiện Xã Hội Giáo Hội Trung Ương, Hòa Thượng quyết định chuyển dời Cô Nhi Viện về tại khuôn viên chùa Pháp Hội, An Hải Đông – quận 3 Đà Nẵng, Ngài tiếp tục nhiệm vụ Giám Đốc và nuôi dạy trẻ mồ côi.
NĂm 1972, Ngài được thỉnh cử làm trụ trì chùa Pháp Hội, Hòa Thượng đã trùng kiến toàn bộ ngôi chùa này.
Năm 1975 đất nước hòa bình thống nhất, Ngài bàn giao Cô Nhi Viện An Hòa cho Nhà Nước, nghỉ chức Giám Đốc Cô Nhi Viện, chi giữ lại chức vụ trụ trì chùa Pháp Hội.
Vào tháng 3 năm 1975, người dân lánh nạn chiến tranh lần lượt trở về quê cũ. Hòa Thượng trở lên Quế Lộc xây dựng lại ngôi chùa Viên Minh để kịp thời có chỗ cho chư Tăng và Phật tử tu tập, phụng sự Đạo pháp. Sau đó, Ngài giao lại cho đệ tử là thầy Đồng Châu làm trụ trì, Ngài trở về tiếp tục điều hành Phật sự tại chùa Pháp Hội, đồng thời về quê nhà củng cố lại chùa Đại An.
Năm 1986, vì tuổi cao sức yếu. Ngài bàn giao chùa Pháp Hội cho Phật tử tập đảm nhiệm, Ngài lui về chùa Đại An ven đồi núi quê nhà để an dưỡng tu niệm.
Đầu năm Kỷ Tỵ (1989) tự thấy mình tuổi đã cao, sức đã yếu, biết không còn sống được bao lâu nữa, nên Ngài thu xếp mọi việc để chuẩn bị cho chuyến đi xa. Dự tri thời chí, vào lúc 18 giờ, Ngài an nhiên viên tịch. Trụ thế 83 tuổi, 28 Hạ Lạp.
Cố HT.Thích Hành Sơn (1908-1989) được biết đến là vị giáo phẩm đã trùng kiến và xây dựng 5 ngôi chùa, một Trung tâm cô nhi An Hòa trước đây ở Quảng Nam.
Hòa thượng có thế danh là Lê Đình Nam, sinh năm 1908, người làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh), TP.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình trung nông có truyền thống Nho học.
Tuổi trẻ của Hòa thượng gắn liền với phong trào kháng chiến giành độc lập dân tộc. Đầu thập niên 1940, người thanh niên Lê Đình Nam mới có nhân duyên đến với Phật pháp và đã sớm có ý thức Phật hóa gia đình, kêu gọi anh em trong gia đình cùng với một số Phật tử phát tâm sáng lập chùa Đại An tại huyện Phú Ninh (1944).
Sau khi quy y với HT.Thích Trí Giác tại tổ đình Phước Lâm (TP.Hội An) và được bổn sư ban cho pháp danh là Thị Hải, năm Canh Tý (1960), Hòa thượng đã phát tâm xuất gia với HT.Thích Như Bình (tức HT.Thích Giải An) tại chùa Thọ Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), được ban pháp tự là Hành Sơn, và cho thọ giới Sa-di. Hai năm sau, Hòa thượng được thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn do Giáo hội Tăng-già Nam Việt tổ chức tại chùa Ấn Quang. Hòa thượng được lưu lại Sài Gòn ở chùa Giác Nguyên - Vĩnh Hội trong hai mùa an cư kiết hạ.
Sau đó Hòa thượng được cung thỉnh về làm trụ trì chùa Viên Minh (làng Trung Lộc, xã Sơn Phúc, nay là huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam). Từ đây Hòa thượng đã nỗ lực tu tập, tiếp Tăng, độ chúng và hoằng dương Phật pháp rộng ra các vùng lân cận như Trung Phước, Đại Bình, Khương Quế, Nông Sơn, Sơn Ninh, Sơn Thuận; Hòa thượng đã thế độ cho hàng chục vị đệ tử xuất gia như Đồng Hòa, Đồng Nghĩa, Đồng Hào, Thị Nguyên, Như Hoàng, chư Ni như Diệu Hương, Diệu Quả...
Năm 1966, Hòa thượng lập ngôi chùa An Lạc (tại TP.Hội An), tại đây Hòa thượng cũng đã thế độ cho một số người xuất gia trong đó có Đồng Huy (tức TT.ThíchThiện Toàn), Đồng Thiện, Đồng Tiến, Đồng Ngộ, Đồng Lực…
Năm 1968, cuộc chiến tranh đến thời kỳ ác liệt cao điểm, nạn nhân bị bom đạn mỗi ngày một tăng, Hòa thượng đứng ra lập cô nhi viện An Hòa. Nhưng do Hòa thượng bị tai nạn nên dự án chậm lại. Sau khi phục hồi sức khỏe, Hòa thượng đảm nhiệm Tổng vụ Từ thiện xã hội GHPGVNTN tại Trung Phần và quyết định dời cô nhi viện An Hòa về khu vực quận 3 (cũ), An Hải Đông, TP.Đà Nẵng. Năm 1972, Hòa thượng được thỉnh cử làm trụ trì chùa Pháp Hội và trùng kiến lại toàn bộ ngôi chùa này.
Sau ngày đất nước thống nhất, Hòa thượng về vùng đất Quế Lộc (Quế Sơn, Quảng Nam) xây dựng lại ngôi chùa Viên Minh để có nơi cho người dân cùng Phật tử lánh nạn trở về có nơi tu tập.
Trong hoàn cảnh đặc biệt, nhưng HT.Thích Hành Sơn vẫn luôn nỗ lực hoằng hóa độ sanh. Trong vòng 30 năm, Hòa thượng đã trùng kiến và xây dựng 5 ngôi chùa, cùng với cô nhi viện An Hòa.
Chùa An Lạc do HT.Thích Hành Sơn khai sơn năm 1966
Đầu năm 1989, xét thấy mình tuổi cao, sức khỏe yếu dần, Hòa thượng đã về đảnh lễ Tổ, đi thăm viếng các ân nhân, thăm hỏi đệ tử sau đó an nhiên thị tịch vào ngày 22-11 âm lịch.
Được biết, sắp tới nhân kỷ niệm 25 năm ngày cố HT.Thích Hành Sơn viên tịch, môn đồ pháp quyến và các hàng đệ tử của Hòa thượng sẽ tổ chức lễ tưởng niệm, tri ân vào ngày 21-11 âm lịch tại chùa An Lạc, TP.Hội An, tỉnh Quảng Nam, một trong những nơi đã lưu dấu hành đạo của Hòa thượng.
Tôi có người đệ tử, đi nước ngoài về tặng cho tôi một bức thư pháp có chữ Smile (mỉm cười) của Thiền Sư Nhất Hạnh. Chữ viết bằng bút lông , mực tàu trên giấy dó. Tôi rất trân quý bức thư pháp này, trong ngày luôn nhìn chữ Smile, để tập cười, tập nuôi dưỡng chánh niệm (bởi vì tôi cũng rất khó cười).
Thiền Sư Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn Xuân Bảo
Tuần lễ vừa qua, tuần lễ bi thương, tang tóc khổ đau, miền Trung các Tỉnh, của quê hương Mẹ. Nước lũ dâng cao, dân không tránh kịp, nước ngập mái nhà, hoa màu tan tác, gia súc thương vong, mạng người đói rét. Ai đã từng sanh ra và lớn lên của các Tỉnh miền Trung, đều đã trải qua những cơ cực lầm than vì cuộc sống. Thiên nhiên không ưu đãi, đất đai nứt nẻ bởi mùa hè nóng bứt, ngập nước bởi những tháng lũ mưa dầm giá rét. Hằng năm phải hứng chịu cảnh lũ lụt ngập nước. Nhưng năm nay, nước lũ dâng cao quá đặc biệt, gọi là vượt kỷ lục trong lịch sử lũ lụt miền Trung. Vừa qua lại phải chịu đựng chống chọi với sự ô nhiểm của biển từ hãng thép Formosa, giờ đây lại gánh chịu nạn lũ lụt bi thương.
Trong Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Ngày Về Nguồn lần thứ 9 ngày 11/8/2015 tại Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc, Đại Tăng từ 4 châu lục đã yết ma thành tựu giao phó việc tổ chức Ngày Về Nguồn Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ 10 cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada.
Thừa lệnh Đại Tăng và được sự bảo trợ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada và Cộng Đồng Tăng Già tại Canada, nên chúng con mạnh dạng thừa đương việc tổ chức Phật sự thù thắng này tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, 11 Chemin Katimavik, Val-Des-Monts Quebec, J8N 5E1, Canada, trong các ngày 6, 7, 8, 9 tháng 10 năm 2016.
Tiếng chuông đại hồng sớm hôm ngân nga đồng vọng giữa núi rừng trùng điệp Bà Nà kia , thức tỉnh du khách nhoài người thức dậy trong sương sớm trên núi cao, ngồi bên tách trà nhìn về Đà Nẵng, nhìn bằng Tâm để thấy rằng con người bé nhỏ li ti như những con kiến kia đang lăng xăng hoạt động trong cõi đời này, dưới phố thị lao xao, để làm gì ? Và khi chết rồi sẽ đi về đâu ? Những nghi vấn bức thiết như thế nếu có được, cũng là từ âm thanh đồng vọng xa xăm trong nỗi nhớ của chiếc xe Hon Đa một thời leo núi, một thời dấn thân cho đời cho đạo, để cho thế đạo vững vàng không chênh vênh khúc khuỷu như nếp gấp của con đường leo núi Bà Nà.
Cố Ni Sư Pháp danh Như Ngọc, húy Nhựt Thạch, tự Diệu Ngọc, hiệu Giáo Ngôn. Thế danh Trần Thị Thạch, sanh năm Kỷ Dậu 1909, tại ấp Long Bình, làng Long Đức, tổng Trà Nhiêu, tỉnh Trà Vinh.
Thân phụ là cụ ông Trần Văn Giác (1888 - 1945), Pháp danh Như Ý, tự Mật Tri. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Như (1889 - 1971), Pháp danh Sương Lực, tự Chơn Tâm.
Đại Trưởng lão Bửu Chơn, một bậc cao tăng, đạo cao đức trọng của Phật giáo Nguyên Thủy, ngài có hơn 10 năm tu hạnh đầu đà ở núi rừng Campuchia. Trở về Việt Nam, ngài là người tu học khá sớm ở Tổ đình Bửu Quang vào khoảng thập niên 40. Ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và Tăng thống nhiệm kỳ Ban Chưởng quản lâm thời vào năm 1957
Bốn Giáo Hội hải ngoại, Ngài là bậc niên cao nhất
Tăng Ni Việt Nam hải ngoại, Ngài là bậc Lạp trưởng nhất
Sinh năm 1928 tại Cần Thơ, Nam Việt
Hiện trụ 2016 tại Ca-li, Hoa Kỳ
18 tuổi thọ Phương trượng Sa Di
25 tuổi thọ Tỳ kheo cụ túc
Đã hoàn tấc Cao đẳng Phật học
Lại tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa
Hai chương trình kết lá đơm hoa
Biển trí tuệ sóng triều duy thức
Chỉ ngần ấy, Ngài xứng đáng đi trước
Hòa Thượng thế danh là Phạm Kim Huệ, sinh năm Giáp Tuất, ngày 02-4-1934 tại làng Cẩm Phô, quận Điện Bàn (nay là thành phố Hội An), tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.ISBN: 978-0-9945548-4-0 , ISBN: 978-0-9945548-4-0 , ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0
Thân phụ của Hòa Thượng là Cụ Ông Phạm Kim Cái pháp danh Như Thế, và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Di pháp danh Như Kim, đều làm nghề Đông y. Hòa Thượng là con thứ sáu trong gia đình gồm sáu anh chị em. Sinh trưởng trong một gia đình nho học, thâm tín Phật giáo, nên lúc tám tuổi Ngài được gia đình cho vào chùa học đạo.
Hòa Nhập Ta Bà Bát Thập Tam
Thượng Tôn Chánh Pháp Sáu Mươi Năm
Như Như Lão Giả Như Như Thật
Huệ Đắc Nào Hay Lão Chẳng Tầm
Cao Tột Một Đời Thông Cửu Phẩm
Đăng Soi Vạn Thuở Sáng Ngàn Năm
Phật Đà Tiếp Dẫn Hương Quang Tỏa
Quốc Độ Tây Phương Linh Giác Tâm.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.