Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật Thầy Tây An và Dòng Sử Phật

17/09/202418:58(Xem: 1238)
Đức Phật Thầy Tây An và Dòng Sử Phật


phat thay tay an-2
Đức Phật Thầy Tây An và Dòng Sử Phật

Nguyên Giác Phan Tấn Hải

 

(Lời Giới Thiệu: Sau đây là bài nói chuyện của Cư sĩ Nguyên Giác trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An tại Hội quán Phật Giáo Hòa Hảo, Santa Ana, California, hôm Chủ Nhật 15/9/2024.)

 

Nam  mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật

Nam Mô Đức Phật Thầy Tây An

Kính thưa tất cả các vị trưởng thượng trong Phật Giáo Hòa Hảo

Kính thưa tất cả quan khách

Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới.

Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.

Bài thơ Mười Điều Khuyến Tu ghi lại giáo lý cốt tủy của Phật giáo, một con đường thẳng tắt để giải thoát. Bài thơ này làm theo thể thơ song thất lục bát, gồm 10 đoạn, mỗi đoạn gồm 8 câu. Cách dùng chữ của Đức Phật Thầy Tây An thích nghi với ngôn phong người Miền Nam, đơn giản, dễ nhớ, rất ít chữ Hán Việt, nêu lên những lời dạy để tu trong đời thường hàng ngày. Thời thế kỷ 19 lúc đó, đồng bào Miền Nam mình đa số mù chữ, nên giáo lý được gói vào thơ để ngâm nga phải rất cô đọng. Tôi tin rằng hầu hết Phật tử của Phật Giáo Hòa Hảo đều thuộc bài thơ này. Và nơi đây, xin đọc lại từng đoạn và kèm theo vài lời nhận xét.

 

Mười Điều Khuyến Tu

Điều thứ nhất: Thầy khuyên nên nhớ,

Lòng trung kiên muôn thuở còn nêu.

Dù ai nặng nhẹ trăm điều,

Quyết không bỏ lý cao siêu của Thầy.

Nhiều thử thách đang vây con đó,

Nếu ngã lòng công khó tiêu tan.

Việc chi còn ở trần gian,

Là điều huyễn hoặc chớ mang trong lòng.

 

Chữ Thầy trong Điều thứ nhất có thể hiểu là hiển lộ của Pháp, không nhất thiết chỉ vào vị Thầy xương thịt, vì thân tứ đại của vị Thầy có thể tan rã, nhưng Phật, khi hiểu theo nghĩa hiển lộ của Pháp, thì trường tồn, bất kể thế gian này có tan rã. Bởi vì lòng trung kiên muôn thuở là chỉ cho Pháp, là trọn đời giữ lòng tin và tu theo “lý cao siêu của Thầy,” tức là  tu theo vận hành của Pháp. Đức Phật Thầy Tây An dạy rằng hãy tu giải thoát, vì “việc chi còn ở trần gian” (tức là pháp hữu vi) đều là pháp như huyễn, “là điều huyễn hoặc chớ mang trong lòng.” Thấy như huyễn thường trực, tức là lià tâm si mê. Trong Phât giáo, thường trực nhìn thấy pháp “như huyễn” là chứng ngộ pháp ấn vô thường, vô ngã, là giải thoát. Như thế, ngay trong Điều thứ nhất, Đức Phật Thầy Tây An dạy phải tín (tin vào lý cao siêu của Pháp), phải tấn (trung kiên muôn thuở), phải giới (chớ mang trong lòng bất kỳ chuyện gì còn ở trần gian, phải lìa pháp hữu vi), phải định (không bỏ lý cao siêu) và phải huệ (chứng ngộ rằng tất cả các việc trần gian đều là huyễn hoặc). Thường trực giữ tâm trong tín, tấn, giới, định, huệ là giải thoát.

 

Điều thứ hai: Thầy trông đệ tử,

Tình bạn bè phải giữ thủy chung.

Luôn luôn tha thứ khoan dung,

Nhủ khuyên nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô.

Dìu dẫn nhau điểm tô công quả,

Phải thật lòng với cả chung quanh.

Thiệt thòi cam chịu đã đành,

Vô vi phẩm vị Thầy dành cho con.

 

Điều thứ hai là nói về sống lục hòa với cộng đồng chung quanh mình. Lòng mình phải khoan dung, lời mình nói phải từ ái, giúp đỡ mọi người, là phải “thật lòng với cả chung quanh” tức là lời dạy “trực tâm là đạo tràng” của Thiền Tông, tức là tu ngay nơi trực tâm, chứ không tu nơi tất cả những gì khác. Và như thế, “vô vi phẩm” là tâm giải thoát, mà vị Thầy, tức lá Pháp tất nhiên sẽ hiển lộ nơi tâm mình.

 

Điều thứ ba: vẹn toàn hạnh đức,

Tuy bán buôn cơ cực tảo tần.

Đổi công nuôi lấy tấm thân,

Đừng ham mến chuyện phi nhân gạt lường.

Dầu tiền bạc đầy rương tràn tủ,

Cuộc trần này biết đủ con ơi.

Ác gian cũng hưởng một đời,

Thà nghèo trong sạch thảnh thơi linh hồn.

 

Điều thứ ba nói về cụ thể trong giao tiếp xã hội, khi chúng ta buôn bán cơ cực, cũng không lường gạt bất kỳ ai. Đức Phật Thầy Tây An dạy lời Đức Phật là phải sống hạnh “biết đủ” tức là hạnh “tri túc” và không bao giờ làm chuyện gian ác. Sống biết đủ và thà nghèo cũng có nghĩa là ly tham, là lìa tâm tham dục. Vì ngay cả khi sống nghèo mà giữ được trong sạch thì tâm mình sẽ được khinh an, hỷ lạc, thảnh thơi. 

 

Điều thứ tư: Pháp môn qui luật,

Lục thập chay gắng sức trau dồi.

Thịt thà xương máu tanh hôi,

Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn.

Đức từ bi thường hằng thể hiện,

Không sát sanh lòng thiện ta còn.

Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon,

Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng.

 

Trọn tám câu trong Điều thứ tư là nói về hạnh ăn chay. Ngài gọi đây là hạnh “từ bi thường hằng” chứ không phải là ngày mặn, ngày chay. Nếu chưa giữ trọn, thì ăn chay sáu ngày, hay mười ngày. Đức Phật Thầy Tây An nói rõ, ăn chay là “pháp môn qui luật” chứ không phải là chuyện không quan trọng.

 

Điều thứ năm: quyết không hờn giận,

Ghét ganh chi cho bận lòng mình.

Con xem vạn điển thiên kinh,

Hiền nhơn quân tử rộng tình vô câu.

Muôn việc xảy bắt đầu sân nộ,

Là nguyên nhân thống khổ ly tan.

Chơn truyền chánh pháp đạo vàng,

Tập xong chữ Nhẫn Niết bàn không xa.

 

Điều thứ năm là giữ tâm không sân, không ganh ghét, giữ tâm vô câu tức là không câu chấp, không nắm giữ. Nếu gặp chuyện bất như ý thì tập Nhẫn, và tâm đó là tiếp cận với Niết Bàn. Nhìn lại, điều thứ ba là lìa tâm tham, điều thứ năm là lìa tâm sân, và điều thứ nhất là lìa tâm si. Khi lìa cả ba tâm tham, sân, si thì ngay nơi tâm mình sẽ hiển lộ Niết bàn.

 

Điều thứ sáu: Thiết tha Thầy dặn,

Ngày hai thời lẳng lặng công phu.

Việc chi dầu quá cần cù,

Cũng nhơn vài khắc tập tu nguyện cầu.

Khi rảnh việc đồng sâu chợ búa,

Đem sấm kinh tự của Thầy ban.

Học cho thông thuộc đôi hàng,

Ngâm nga trong lúc thanh nhàn bâng khuâng.

 

Điều thứ sáu là mỗi ngày nên có hai thời công phu. Điều này hẳn là ảnh hưởng từ truyền thống Phật giáo Miền Bắc và Miền Trung Việt Nam, có thể là từ cội nguồn Nhị Khóa Hiệp Giải. Tuy nhiên, Đức Phật Thầy Tây An nói rằng “lẳng lặng công phu” chứ không phải tụng kinh, gõ mõ. Ngài thực tế dạy rằng phải thường trực tu bất cứ khi nào nhớ tới, “cũng nhơn vài khắc tập tu nguyện cầu,” và cốt tủy là nên học lời dạy của ngài, học cho thông thuộc đôi hàng, hễ rãnh tay là ngâm nga. Tức là, tu trong 24 giờ, hễ nhớ là tu, là nghiền ngẫm các câu thơ để ngâm nga.

  

Điều thứ bảy: quyết tăng công quả

An ủi người già cả ốm đau

Tuỳ duyên có thể giúp vào

Lâm cơn hoạn nạn khi nào cần con

Phước đức đó vẫn còn muôn thuở

Tuy vô hình đừng ngỡ rằng không

Con ơi, trong chốn trần hồng

Mấy ai nghĩ đến cõi lòng thanh cao.

  

Điều  thứ bảy phải tu là công tác xã hội. Tùy duyên để giúp người già, người bệnh, người hoạn nạn. Phước đức này tuy mắt trần không nhìn thấy, nhưng sẽ có uy lực bảo vệ cho người tu. Chính phước đức giúp người bệnh sẽ làm cho mình không bệnh, phước đức giúp người hoạn nạn sẽ giữ cho mình ít hoạn nạn, phước đức giúp người già sẽ giúp mình tăng thọ.

 

Điều thứ tám: lời nào Thầy dạy

Dù khổ lao chớ nại công trình

Mặc dầu con phải hy sinh

Phật Tiên đâu nỡ quên mình con sao

Đừng chấp việc núi cao rừng thẳm

Hay là đường muôn dặm xa trông

Hễ con thề giữ trọn lòng

Đương nhiên đắc đạo, thoát vòng tử sanh.

 

Điều thứ tám là kiên tâm tu những lời dạy trên. Lời dạy “giữ trọn lòng” nói theo chữ Thiền Tông là giữ “định nhất tâm” thường trực, hộ trì trọn vẹn tâm mình, thì đương nhiên sẽ đắc đạo, thoát vòng tử sanh.

 

Điều thứ chín: Đạo Lành căn bản

Giữ làm sao có bạn không thù

Từ đây con nhớ rằng tu

Hạ mình nhận lỗi mặc dù là không

Lời nói sao hoà trong hiệp ngoại

Đừng hơn người nếu phải ép lòng

Không ham những chuyện mênh mông

Vừa no, đủ ấm, đèo bồng mà chi.

 

Điều thứ chín là lời Đức Phật Thầy Tây An dạy: không bao giờ thấy ai là thù, luôn luôn nhìn mọi người là bạn. Lời nói phải từ ái. Đừng nghĩ rằng mình phải làm những chuyện mênh mông, vì sẽ dựng thêm chướng ngại trong tâm mình khi phải  ganh đua với người này, người kia. Nếu cần thì “hạ mình nhận lỗi mặc dù là không”… Câu “không ham những chuyện mênh mông” còn có nghĩa là đừng để cho tâm chạy lang thang, “vừa no, đủ ấm” là niệm thân mình, và “đèo bồng mà chi” là niệm tâm mình, chớ nắm giữ bất kỳ cái gì làm mình chệch hướng.

 

Điều chót hết: mười ghi trăm nhớ

Phật, Pháp, Tăng con chớ quên ơn

Gia đình nghĩa nặng nhiều hơn

Tình thương xã hội giúp cơn thiết cần

Ơn Tổ tiên, dành phần con cháu

Đó những lời dạy bảo Thầy mong

Con ơi, con khá ghi lòng

Bấy nhiêu tâm huyết bấy dòng văn thơ.

phat thay tay an
Tác giả Nguyên Giác

 

Điều thứ mười là, phải báo đền bốn ơn sâu. Đức Phật Thầy Tây An nhấn mạnh là phải “mười ghi trăm nhớ” để đền đáp ơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn cha mẹ và tổ tiên, ơn đất nước, ơn đồng bào và nhơn loại.

Như thế, Đức Phật Thầy Tây An đã soạn ra bài thơ Mười Điều Khuyến Tu, nơi đây cô đọng giáo lý nhà Phật trong một cách thiết thực nhất, thích nghi cho tất cả mọi người trong đời thường, và cũng là pháp tu để giải thoát. Đây cũng là pháp liễu nghĩa, chứ không phải là pháp phương tiện. Người tu nương theo bài thơ này, không chỉ bao dung, hòa hài với mọi người, mà cũng sẽ tự xóa sạch tham, sân, si, cũng sẽ thường trực nhìn thấy như huyễn, chứng ngộ vô thường, vô ngã và sẽ “đương nhiên đắc đạo, thoát vòng tử sanh,” như lời thơ ghi trong Điều thứ tám

Trân trọng cảm ơn quý trưởng thượng trong Phật giáo Hòa Hảo.

Trân trọng cảm ơn quý quan khách.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2011(Xem: 6544)
Xuyên suốt lịch sử dân tộc, đã có biết bao nhiêu nhân vật với tư cách là người đứng đầu đất nước đã có những kỳ tích lẫm liệt đối với đất nước. Có nhân vật nổi bật lên trong sự nghiệp giữ nước, có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp dựng nước, lại có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp mở nước, hoặc có một số nhân vật có cả hai hoặc ba lãnh vực đó.
10/08/2011(Xem: 4881)
Cuộc đời xuất gia của Tổ Trúc Lâm là một cuộc đời hoạt động sôi nổi, tích cực. Ngoài các mùa kết hạ tại các am núi hay các chùa, thời gian còn lại Ngài thường đi vân du hoằng hoá đây đó. Năm 1304, “Điều Ngự đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ [đền miếu thờ các thần sằng bậy] và thực hành giáo lý Thập thiện”. Ngài muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng luân lý đạo Phật, góp phần củng cố triều đại thời hoàng kim của mình. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng Mười một năm Mậu Ngọ (tức 7 – XII - 1258). Năm 21 tuổi (1279), Ngài lên ngôi vua, trải qua hai niên hiệu là Thái Bảo và Trùng Hưng.
10/08/2011(Xem: 6218)
Đại lễ tưởng niệm 700 năm Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn diễn ra từ 25 đến 27.11.2008 tại Quảng Ninh. Trong dịp này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ninh sẽ tiến tới đề nghị hàng năm tổ chức tưởng niệm ngày mất của ngài (1.11.1308) như Quốc giỗ của Phật giáo và trình lên UNESCO công nhận Trần Nhân Tông là Danh nhân Văn hóa Thế giới.
10/08/2011(Xem: 5764)
Đã có 92 tham luận của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước gửi đến cuộc hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông hôm qua 26-11, tại thị xã Uông Bí (Quảng Ninh).
10/08/2011(Xem: 5059)
Trần Nhân Tông phải được coi là nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch trình phong kiến Việt Nam và cũng là nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt Nam, một trong những niềm tự hào lớn lao nhất của dân ta.
10/08/2011(Xem: 6007)
Về cuộc đời và sự nghiệp lịch sử, giải thoát của vua Trần Nhân Tông, đã có nhiều công trình biên khảo: Trần Nhân Tông, thiền sư Việt Nam; Trần Nhân Tông, nhà văn hóa; Trần Nhân Tông, nhà thơ; Trần Nhân Tông, nhà quân sự; Trần Nhân Tông, nhà lãnh đạo lỗi lạc; Trần Nhân Tông, nhà tư tưởng... Trong bài khảo luận ngắn này, người viết chỉ đề cập đến một số nét tiêu biểu về Tiểu sử, sở đắc giải thoát và Tư tưởng Phật học của Người.
10/08/2011(Xem: 5525)
Lịch sử dân tộc VN không có nhiều vị vua có được sự ghi chép đầy đủ về sự mến mộ của người dân sau khi đã mất như Vua Trần Nhân Tông. 50 năm cuộc đời, nhà vua để lại bao lưu luyến cho những người đương thời và hậu thế... - nhận định của GS-TS Lê Mạnh Thát - Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo VN tại TPHCM.
09/08/2011(Xem: 5355)
Gần đến kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông, chúng ta vẫn phải đặt những câu hỏi về tuổi tác, về trách nhiệm, về kế lâu dài, về sự tự do và tự trọng của các cá nhân trong xã hội…
09/08/2011(Xem: 4896)
Nghiệm sinh nửa thế kỷ trên cõi đời, Trần Nhân Tông (1258-1308) đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử chống ngoại xâm, xây dựng đất nước, phát triển tư tưởng Phật giáo dân tộc và là một trong những tác giả đi đầu trong việc sáng tác thơ phú bằng chữ Hán và chữ Nôm.
09/08/2011(Xem: 5145)
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi khoác tăng bào ở tuổi 40 đã chu du khắp nơi để thuyết pháp, giảng kinh, khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, và từng trở về kinh đô Thăng Long tổ chức lễ thụ Bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và quan lại triều đình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]