Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Thương Gởi…!

24/07/202406:14(Xem: 1738)
Lời Thương Gởi…!


ht hue tri-1ht hue tri-3

Lời Thương Gởi…!


Lời thương gởi, một vầng mây thầm lặng.
Nhắn chút tình, Thầy giả biệt đi xa,
Trời Sài Thành, mưa buồn tuông vô định,
Khóc tiễn Thầy, vọng tiếng niệm Di Đà.

Lời thương gởi, vùng quê xưa Quảng Trị.
Tuổi thanh Xuân, bập bẹ mới lên Năm.
Theo chân bước, vào Cố Đô nuôi dưỡng.
Chốn Không môn, nung khí tiết Ân thâm.

Lời thương gởi, mùi thơm hương vì Đạo.
Học kinh văn, từ thửa nhỏ ấu thơ
Học kinh luật, làm Sa Di đuổi quạ,
Rộng đôi đường, giữa xứ Huế Mộng mơ.

Thời hành điệu, chốn Tổ Đình Báo Quốc,
Phép hầu Thầy, luôn khiêm hạ oai nghi.
Thường đảnh lễ, bậc tùng Thiền Tăng trưởng.
Vận tâm hành, trong lời nói tướng đi.

Chốn Từ Đàm, nuôi đèn thiền nung chí,
Từng thời vận, khan khổ suốt thời gian.
Vững chí nguyện xuất gia hành cầu đạo.
Ý xuất Trần, thấm đại nguyện thênh thang.

Nơi Kim Tiên, một thời Thầy học luật,
Từ khoa nghi, tán tụng cúng mười phương.
Hành văn sớ, ngữ ngôn luôn cẩn mật,
Thọ ân Ngài, Hưng Dụng pháp tình thương.

Vui cầu đạo, Hải Đức thầy An trú.
Lễ tấn đàn, làm Thích Tử Sa Môn,
Nương Đàn Đầu, trao giới thân Huệ mạng.
Trọn đời Thầy, trong ý niệm tâm hồn.

Quê Sài Thành, dừng chân lưu giáo hoá
Chọn Quang Minh, lấy điểm tựa Già Lam.
Bao chức vụ, Thầy được Tăng cung thỉnh.
Sống Trọn đời, mùi hương nguyện giới Tâm.

Bảy ba tuổi, giữa hai Niềm thi ảnh.
Thấm nhân duyên, trong bản hạnh Tỳ Kheo.
Năm Mươi Hạ, tròn giới Đức phạm hạnh.
Để nương nhờ, y chỉ pháp noi theo.

Phó Chủ Tịch, dù chức cao vẫn vậy.
Củ khoai lang, buổi sáng sớm hôm nào.
Tri sự trưởng, qua các vùng nguy khó.
Lấy giới thân, uy tướng nhiếp vầng sao.

Chốn Bạc Liêu, một vùng xa thành phố.
Chẳng ngại thân, nhiếp hoá chúng tinh tu.
Chốn Đồng Tháp, một vùng quê sen thắm,
Thầy lại về, lưu nhiệm hướng tâm từ.

Chốn Bà Rịa, muôn ngàn sóng gió vỗ,
Vì Đại Tăng, nên ứng pháp hoá thân.
Bao cương vị, Thầy âm thầm mật niệm.
Hoá Dung từ, lấy hạnh nguyện Tứ Ân.

Phó Trụ Trì, ngôi Thiền Viện Quảng Đức
Học Pháp Hoa, trong mật niệm Hoá thành.
Học Thiền tập, dưỡng thân an định tuệ.
Sống tặng đời, một nụ cười thanh thanh.

Ngôi Viện Chủ, chốn Sắc Tứ Linh Quang.
Làng Trung Kiên, dưỡng Đức Tăng thánh giả.
Dựng xây tình, trong mầm tuệ Như Lai.
Ôm cõi tịnh, hình ảnh bóng Tăng già.

Xin từ biệt, Hồng Trần xin giả biệt.
Cõi Niết Bàn, An dưỡng thất từ dung.
Trong chéo áo, Kim Cương luôn ẩn hiện,
Sống nghĩa tình, trăng hoá kiếp đại hùng.

Xin từ biệt, về lại chốn Huế xưa,
Gởi hình tháp, dung hình hài tứ đại.
Nơi bảo sở, im hằng soi ánh Nguyệt.
Nguyện hầu Thầy, trong muôn kiếp tái lai.

Chân nhẹ gót, nương Di Đà tiếp độ.
Giới Bồ đề, đạt ý nguyện Tương Phùng.
Hàng thất chúng, môn phong luôn kính trọng .
Nguyện bên Thầy, mãi chí hạnh ung dung.

Nhân duyên trùng Phùng:
       Kính bạch giác linh Ôn, chúng con Tỳ Kheo Thích Minh Thế, với nhân duyên hạnh ngộ trùng phùng, khi được duyên lành diện kiến Ôn tại các chốn Tổ Đình, từ niềm Trung vào tận Niềm Nam, trong những năm chúng con vân du hành hoá đảnh lễ chư Tôn túc, học pháp  với Ôn thì chúng con học nhiều điều trong pháp hành, từ những ngày mới vào Sài Gòn, duyên lành từ những mốc thời gian đi qua, 2006-2008-2010-2012-2016-2019-2023, đây là duyên từ chốn Quảng Hương Già Lam, Hải Quang, Thiền Viện Vạn Hạnh, Thiền Viện Quảng Đức, Chơn Giác, hoặc hữu duyên con được gặp Ôn.
         Lời Ôn dạy còn vang trong ý niệm, pháp ứng dụng vẫn hằng in trong trí nhớ, với tâm niệm chí thành, chúng con xin Ôn cho phép con ghi lại một số lời dạy của Ôn.
         Bạch Ôn, thời gian cứ trôi, áng mây bay giăng sầu, đất Sài thành giờ này vắng dáng Ôn, âm thanh trầm hùng lời pháp ấy giờ vào nội tâm chân thật khi ai được diện kiến Ôn, thanh dáng gầy mảnh mai, với chiếc áo vàng thường nhật hằng ngày, đâu đó thời gian vẫn luôn luôn nhớ về cung cách mà Ôn để lại cho các thế hệ Tăng- Ni trẻ chúng con.
        Cách đây 18 năm về trước, con mới là một vị Tỳ Kheo nhỏ tuổi, được duyên về chốn Quảng Hương Già Lam, nhân lễ huý kỵ của Cố Trưởng lão Hoà Thượng thượng Trí hạ Thủ.
         Hôm đó chúng con được duyên đảnh lễ Ôn Tuệ Sỹ, Ôn Thanh Huyền, Ôn Đức Thắng, Ôn Đức Chơn, Ôn Đạt Đạo, Ôn Phước Sơn, Ôn Minh Tuệ, trong đó có nhân duyên hầu chuyện đến Ôn, khi Ôn nhìn con với ánh mắt nghiêm nghị, nụ cười thanh thanh, khiến cho chúng con ấn tượng mãi về một Bậc Thầy dung dị và chân chất.
         Hạnh phúc thay, con chấp tay lại và đến bên Ôn đảnh lễ và trình bạch:
        “ Kính bạch Ôn, con là Minh Thế, xuất gia tại chùa Phước Thành, đệ tử của Hoà Thượng Bổn sư Thượng Chí Hạ Thắng, thuộc chốn Tổ Đình Từ Hiếu- Huế, học pháp với Ôn Thái Hoà, Ôn Lưu Thanh, Ôn Thiện Hạnh, hôm nay duyên lành con vào niềm Nam, để được đảnh lễ tham vấn từ pháp học quý Ôn…! Xin Ôn chỉ dạy cho chúng con…? “
          Ôn nhìn một hồi rồi dạy rằng:
         “ Nói tới chốn Tổ Đình Từ Hiếu- Huế, Ôn có duyên thọ giới Sa Di, trong giới đàn Vạn Hạnh- năm 1965, thời ấy khổ lắm con ạ, nhưng ý chí luôn luôn trung kiên tu học, với sau này Ân Sư của Con là thọ giới trong Đại giới đàn Phước Huệ- 1973 tại Nha Trang, giới đàn ấy quy tựu Quý học Tăng khá đông, trung kiên học tập và nghiêm khắc từng câu luật ngữ, nên Quý Ôn còn khá nhiều và làm những công tác cho Giáo hội xưa và nay.
            Hôm nay con vào đây thăm và đảnh lễ Quý Ôn, đó là mật hạnh Ôn tán dương tâm học Đạo của con Minh Thế, vì Tăng trẻ ngày nay ít lắm, chưa có được duyên gặp nhiều Quý Ôn, nay được duyên Ôn trao cho con một lời dạy nho nhỏ mà nhớ thực hành…!”
          Ôn nghỉ một chút, nhấp một hớp trà và rồi Ôn dạy:
          “ Con Minh Thế thường hay trì kinh gì…? Có dùng mật chú âm thanh ngữ ngôn nào không…?”
         Chúng con chấp tay và cung kính bạch với Ôn rằng:
          “ Bạch Ôn hoan hỷ bố thí cho con, con thường hay trì Pháp Hoa Kinh, trì Chú Đại Bi, trì  câu chú Thủ Lăng nghiêm, ngoài ra còn hay niệm Phật và an yên với thiền tập….!”
          Ôn nghe xong, cười vui lắm và Ôn dạy rằng:
          “ Tâm tu học của con tốt, nên duy trì, và nhớ vận hành ba yếu chỉ sau:
         1: Học Pháp hoa kinh: Trong Pháp hoa cốt lõi của ý kinh chính là Khai Thị chúng sanh, ngộ nhập Phật tri kiến, nhớ lấy phẩm hạnh Phổ Hiền làm cốt tuỷ tu học, rồi vận hành Pháp Hoa Kinh như chéo áo kim cương, thô nhưng mà thật, hoá như dụ, tướng như tâm, tánh như trì, giữ gìn tâm giới ấy là pháp hành của Ôn, kiên trì như bảo sở trở về tánh Pháp tu trì.


ht hue tri-2ht hue tri-4ht hue tri-5ht hue tri-6ht hue tri-7ht hue tri-8



        2: Học Đại Bi Tâm: Trong pháp hành Đại Bi, Con Minh Thế luôn luôn nhớ lấy pháp kim cương chuỳ kim cang, vận tâm ứng hành niệm tới Vô niệm, như thế mới là Thiên Thủ Thiên nhãn, mắt thấy Chánh kiến, tai thấy Chánh ngữ, miệng thấy Chánh định, ý thấy Chánh tinh tấn, thân thấy Chánh niệm, lực thấy Chánh mạng, giới thấy Chánh Tư duy, hạnh dộng dừng Chánh nghiệp, để duy trì nhiếp phục đại bi tâm.
          Đồng thời, nhớ mang tâm bi, tâm từ, tâm hỷ, tâm xả, để nuôi dưỡng tình thương cho muôn người và muôn vật.
          3: Học Cách Tuỳ Duyên: Trong pháp mà Như Lai dạy, tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, như chính mình tu học và làm hết lòng vượt qua mọi khó khăn trong nghịch cảnh, đạt được tâm an tỉnh ấy là người tuỳ duyên trong vạn sự nhân duyên.
          Sau khi Ôn dạy ba đều trên rồi Ôn ngân nga nhỏ nhẹ đọc mấy câu thơ như ý nguyện trao gởi tâm pháp cho chính chúng con vận hành mà tu dưỡng.
          Ôn đã đọc mấy câu kệ rằng:
           “ Hồng Trần Tâm sắc tướng.
              Minh Thế Thể Tánh Không
              Sắc Sắc Hằng Bản Thị
              Tướng Tướng Hiện Chân Thông…! “
           Chúng con chấp tay lại và đón nhận được dòng sửa pháp, an tịnh từ đây cho chúng con vận hành tâm nuôi dưỡng tu học trên tinh thần Vân du, mãi mãi như chính câu kệ mà Ôn trao cho chúng con.
           Kính bạch giác linh Ôn, thời gian là vậy, nhưng dấu ấn lời dạy của Ôn mãi không phai, chúng con được duyên lành những năm về sau cứ mỗi lần gặp Ôn là được một lời pháp hay, dẫu biết rằng Ôn trên cương vị cao, nhưng tâm Ôn, hành trạng Ôn khá bình dị, gần gũi với thế hệ Tăng Ni trẻ, Ôn luôn luôn lắng nghe và khuyên bảo cho anh em huynh đệ Tăng Ni chúng con.
          Riêng bản thân chúng con, ghi chép những lời Ôn dạy, vào trong từng trang viết: “Tăng Du Bụi Hồng”, đây chính là một duyên lành lớn khi chúng con trở về tham vấn các Ôn lớn từ giới đức khắp Ba niềm Bắc- Trung- Nam, hoặc ra tận Hải Ngoại khi chúng con hội đủ duyên lành.
         Hôm nay, ngày 19-07-2024, tức ngày 14-06- Giáp Thìn, trời vừa sáng chúng con nghe điện thoại từ pháp hữu Nguyên Hiếu, báo Ôn đã an yên thong dong về chốn củ quê hương Tịnh Độ, sự đến đi như câu thơ Ôn để lại:
          “Hồng trần cõi tạm thôi về
           Tuỳ duyên gởi lại bên lề tử sanh.”
         Trong không gian, dưới lớp mưa dầm trên mảnh đất Sài Thành, như thay lời tiễn dấu chân Ôn, trong niềm tin mãi bên Phật ấy chúng con hướng về giác linh Ôn trong hạnh nguyện tự tại như chính Ôn đến đi như gió tuyết trăng mờ, in đậm một bậc khí tiết Thiền Tăng.
         Thế rồi, xe tang lăng bánh, rời Sài Thành về chốn Tổ Đình Kim Tiên - Huế, nơi ngày xưa Ôn từng tu và học trong khoảng thời gian thanh Xuân tuổi hành điệu tới khi làm vị Tỳ Kheo Tăng, và cũng chính Sài Thành  44 năm Ôn hành Đạo trải qua các vùng niềm Tây, Niềm Nam, Niềm Tây Nguyên, khi đi tham dự các đại lễ, khi đi chứng minh, khi đi Phật sự Tăng sai cung thỉnh đúng như pháp yết ma, hoặc về Bạc Liêu thọ lãnh Trưởng ban trị sự, hoặc khi Đồng Tháp Tăng thỉnh trấn nhiếp uy Tăng, hoặc khi Bà Rịa Vũng Tàu Tăng cầu Phước Đức oai nghi, thì Ôn xã thân hành hoá. Bao nhiêu dấu ấn, bấy nhiêu nghĩ tình, thì chúng con mãi mãi khắc sâu.
           Giờ này, trong Thiền Thất Hỷ Tịnh- Hà Nội, chúng con kính nguyện lên Ôn, thọ trì Pháp hoa kinh, và Đại Bi chú để nhiếp phục năng lượng trao gởi nguyện giác linh Ôn: “Tự Tại khứ lai, hồi quy bảo sở..!” Nơi in dấu hình hài tứ đại đồng kết giao.
         Chúng con Tỳ Kheo Thích Minh Thế đồng mật niệm…!
         Mùa Tịnh Niệm Hạ pháp An Cư-2568
         Viết tại Thiền Thất Hỷ Tịnh- Hà Nội, ngày 15-06-Giáp Thìn, nhằm ngày 20-07-2024
            Tk: Thích Minh Thế
            Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.
            Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 7334)
Tôi biết tin GS Phạm Công Thiện mất qua trang web viet-studies của GS Trần Hữu Dũng post ngày 10-3. Dòng thông tin được dẫn từ báo Người Việt ở Houston, bang Tesas cho biết theo gia đình và Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Mỹ xác nhận ông mất ngày 9-3-2011, thọ 71 tuổi. Trước khi mất dường như ông đã biết trước cuộc vĩnh ly này nên nhập định rồi ra đi nhẹ nhàng. Ngoài dòng báo tin của báo Người Việt còn bài viết cho người đã mất của nhà văn Viên Linh với tư cách bạn bè.
12/03/2011(Xem: 7435)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 7020)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 5996)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 19812)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 6266)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 6389)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 7233)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 5967)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 5954)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]