Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoà thượng Thích Chân Trí (1927-2024) vừa viên tịch tại Huế

28/05/202419:23(Xem: 2881)
Hoà thượng Thích Chân Trí (1927-2024) vừa viên tịch tại Huế


ht thich chan tri

CHÙA CỔ THẦY XƯA XỨ HUẾ

 

Huế thường được mệnh danh là “Kinh đô Phật giáo” chẳng phải vì cảm hứng nghệ thuật hay cường điệu vẽ vời mà chính vì Huế có tới 332 ngôi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có khoảng 100 ngôi cổ tự. Các ngôi chùa ngày nay hầu như đều được trùng tu nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính, căn bản mang đậm màu sắc văn hóa Phật giáo. Dẫu là dấu tích truyền thống của tôn giáo nhưng những ngôi chùa cổ của Huế vẫn tiềm tàng những giá trị tâm linh, văn hóa, lịch sử của vùng đất cố đô.

 

Bên cạnh ngôi chùa “cao niên” nhất là Thiên Mụ 400 tuổi thì nằm trong số những ngôi chùa trên 100 tuổi có chùa Phước Điền gần chùa Diệu Đế cạnh chân cầu Đông Ba cũ.

 

Hôm nay chùa Phước Điền được người dân Huế nhắc đến vì vị trụ trì lâu nhất trong một ngôi chùa cổ 120 tuổi là Hoà thượng Thích Chân Trí vừa viên tịch ở tuổi 97.

 

Thầy Chân Trí là tu sĩ thuộc thế hệ quý hòa thượng Minh Châu, Đức Tâm, Mãn Giác, Trí Quang, Nhất Hạnh… ở Huế. Thầy là một trong bốn tác giả soạn “giáo khoa thư” Phật Pháp cho hệ thống Gia đình Phật Tử năm 1951 và vẫn còn là tài liệu chính thức về Phật Pháp cho cả 4 cấp GĐPT – VN còn truyền dụng đến ngày nay cả trong và ngoài nước.  Xin thỉnh ý quý GĐPTVN trong nước cũng như khắp năm châu nên dành sự tưởng niệm Thầy Chân Trí, một trong bốn vị ân sư (Thích Minh Châu, Thích Đức Tâm, Thích Thiên Ân, Thích Chân Trí) đã góp phần cố vấn giáo hạnh soạn cuốn Phật Pháp dành riêng cho GĐPT đã lưu truyền, được dịch ra ngôn ngữ của những nước có GĐPT sinh hoạt và toàn thể huynh trưởng cũng như đoàn sinh các ngành dùng làm tài liệu dạy và học Phật Pháp hàng tuần.  Thầy Chân Trí là tác giả sau cùng vừa mới ra đi.

 

Thời còn học ở ĐHSP Huế, tôi có duyên ở nhà trọ đi học sát nách chùa Phước Điền; lại duyên may hơn nữa là bạn cùng lớp với anh Trần Đăng Tường, cháu gọi Thầy Chân Trí bằng chú ruột nên được gặp và thưa chuyện với Thầy khá thường xuyên. Ngày xưa và bây giờ tôi vẫn khâm phục Thầy về sự uyên bác Duy Thức Học Phật giáo, một phân ngành mà tôi cho là “khó nuốt” nhất trong kinh văn Phật giáo. Thầy vẫn thường so sánh Duy Thức Học Phật giáo với Tâm Lý Học phương Tây. Cho đến khi học chương trình Ph.D Tâm lý học ở Mỹ tôi mới có cơ hội được “sáng mắt” và càng khâm phục phương pháp phân tích và luận giải của Thầy Chân Trí hơn. Năm 1982, những ngày chuẩn bị rời Huế, tôi thường đến xin Thầy gieo cho một quẻ “Nhật thần Âm Dương” để xem tôi có được “chân cứng đá mềm không” vì thời đó biết Thầy nghiên cứu rất cẩn trọng Dịch Lý Âm Dương cổ điển. Nhưng Thầy cười và dặn rằng, theo tinh thần Phật giáo thì trong phương tiện đã có cứu cánh và ngược lại; cũng như “nhân quả đồng thời”.  Phải đi thêm hơn một nửa đời nữa, tôi mới trải nghiệm được lời Thầy.

 

Hôm nay, nhận được tin Thầy viên tịch, dẫu là ở tuổi 97, nhưng sự vĩnh biệt nào cũng có nỗi niềm xót xa riêng. Xin lắng lòng, dốc tâm cầu nguyện hương linh Thầy sớm vãng sanh Cõi Phật.

 

Sacramento, Memorial day 2024

Trần Kiêm Đoàn


ht thich chan tri

 

ĐIẾU VĂN
 TƯỞNG NIỆM - BÁI BIỆT
HÒA THƯỢNG THÍCH CHÂN TRÍ
Viên tịch ngày 26-5-2024

 

 

Mùa Phật Đản – An cư Kiết Hạ,

Tâm an nhiên nương bóng Phật Đà.

Tin buồn nhang khói bay xa;

Thầy vừa viên tịch,

Lệ nhòa cõi không:

Hòa thượng Thích Chân Trí.

Thầy là Thầy, là Chú là Cha,

Là bóng mát cội nguồn che chở.

Một trời tri ân thương nhớ.

 

Nhớ linh xưa...

 

Hòa thượng Thích Chân Trí pháp danh Tâm Nguyên,

Dòng Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán, đời thứ 43.

Thế danh là Trần Đăng Hiền sinh năm Đinh Mão (1927)

Thầy một đời đến và đi trên xứ Huế thân yêu:

Năm 14 tuổi xuất gia đầu Phật, 16 tuổi thọ giới Sa Di.

Tuổi thanh xuân tinh tấn tu hành

Tốt nghiệp Phật học Viện Linh Quang,

Hoàn mãn Phật học đường Báo Quốc.

Kinh văn Việt Hán Nôm tinh thông,

Bút khảo tùng thư thoáng rộng giúp đời.

Tuổi đôi mươi thọ hành Đại  giới.

Diệu pháp thâm sâu học hành tấn tới,

Duyên đắc pháp sáng ngời tên tuổi,

Là giảng sư cho tổng hội Phật giáo Trung phần,

Giáo sư Phật học đường Báo Quốc.

Cùng các danh tăng đương thời:

Minh Châu, Đức Tâm, Mãn Giác, Thiên Ân.

Người xưa đều đã khuất,

Bát Nhã thuyền không tăng thân một thuở,

Mãi đến hôm nay Thầy ghé chuyến sau cùng.

 

Nhớ Thầy thời nhập thế,

Vận dụng sở tu, sở học,

Công hạnh hoằng dương chánh pháp, giúp đời.

Thầy phát huy công hạnh sáng ngời:

Cùng với danh tăng Minh Châu, Thiên Ân, Đức Tâm biên soạn:

Kinh sách gối đầu cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Sách Phật Pháp xưa và nay là tâm kinh của Gia Đình Phật Tử,

Suốt bốn ngành từ Oanh Vũ đến ngành Thanh.

Tác phẩm Ý Nghĩa Cờ Phật Giáo:

Ngũ sắc năm châu màu sống đạo,

Tài liệu chân truyền còn đắc dụng đến hôm nay.

 

 

Thầy là ân sư,

Trên những nẻo đường,

Giáo dục mầm non.

Tâm hướng Phật Trường Bồ Đề duyên khởi,

Thế hệ đàn anh đã đi đã tới!

Thầy chung tay điều hành và giảng dạy,

Đã bao năm nhiều thế hệ tương lai.

Thầy vô ngại trên con đường vạn lý,

Có những khúc quanh,

Dòng đời xuôi ngược...

Thế sự thăng trầm cuốn hút đời xanh.

Duyên nghiệp trùng lai nẻo đạo gập ghềnh;

Thầy cố vươn lên nghiệp đời níu lại,

Hiếu nghĩa vuông tròn trụ thế xuất gia.

Chùa tổ Phước Điền thường trụ giữa phong ba,

Vững tay lái giữa Ta Bà thế giới.

Chùa vững trụ 120 tuổi,

Thầy vững chèo qua ngót 100 năm.

Trần Trụ Quốc Từ thế truyền hương hỏa,

Mãi lưu truyền tộc phả còn nguyên.

Thầy hiện thân như một thuở Trích Tiên,

Vỡ chén lưu ly Ngọc Hoàng bắt tội,

Nhưng vẫn bước minh tâm thiên tư sám hối;

Duyên phù trần về với trần gian…

 

Thành kính cung tiễn Thầy,

 

Dù cuộc đời đầy gian nan khổ ải,

Thành trụ hoại không chẳng chấp nhặt riêng ai…

Thầy vẫn an nhiên giữa mưa nguồn chớp bể,

Vững tay chèo thiên lý nhất phương.

Thầy an nhiên giữa vô thường tứ đại,

Nương tướng thật nẻo về không lại hoàn không.

 

Bái biệt Thầy:

Trời đất mênh mông,

Mười phương chư Phật.

Thuyền từ Tam Bảo lướt sóng bụi hồng,

Môn đồ, pháp quyến, tứ chúng, Trần tông,

Hộ niệm giác linh hướng vọng kim đài,

Sớm biệt trần ai siêu sanh Tịnh Độ;

Vãng sanh cõi Phật Chân Như:

Nam mô tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.

 

Huế ngày 27-5-2024

TRẦN ĐĂNG TƯỜNG

(Ai điếu Chú ruột, Thúc phụ)


ht chon tri (1)


BÁI KHẤP

thượng CHÂN TRÍ hạ TRÍ LÃO HOÀ THƯỢNG




Phủ phục, bách bái Đại Lão Hoà thượng giác linh
Chúng con cung kính nghe rằng:
Tâm Nguyên Hoà thượng,
Nhập Thừa Thiên thác hạ Trần tông
Chơn Trí Thiền ông
Đăng Phước Điền đồng quy Thích chủng
Thi - Kinh thường tụng
Hán - Việt uyên đàm
Bút vận thoát tục siêu phàm
Tâm hàm khoan dung quảng độ.

Thiện tai! Hoà thượng:
Phương trượng môn, sa-di cầu thọ,
Nhập đạo đồng chơn.
Hộ Quốc đàn, cụ túc viên nhơn,
Truyền đăng Liễu Quán.
Phàm tâm viễn đoạn,
Phật trí toàn chương.
Bồ-Tát đạo thị hiện vô thường,
Bát-Nhã âm tuyên hoằng vô ngã.
Báo Quốc trường, Phật học hoàn mãn
Linh Quang viện, sở trí châu thành.
Giáo Hội cử tác kim danh
Trung Phần nhậm sung Phật sứ
Hàm Long tư thục,
Bồ Đề giáo sư.
Hoá dục Tăng từ, tiếp truyền huệ đăng pháp kiệt.
Trường sanh chủng thiện, lưu phát trí quả linh miêu.

Chúng con lại nhớ:
“PHẬT PHÁP” hảo điều,
Bồi thực thiên niên đồng ấu.
“ĐẠO KỲ” xán lạn
Hàm triêm vạn thế quần sanh.
Oanh, Thiếu, Trưởng, Thanh
Tăng, Ni, Thiện, Tín…

Lành thay!
Nhất Phật, Nhất Tâm, Nhất chơn đế lý,
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Ngũ sắc hào quang.
Hằng truyền đạo pháp huy hoàng
Vĩnh tức trầm luân khổ hải.

Cuộc đời Ngài:
Vượt thời muôn ải
Hoá đạo ngàn phương
Giữa sóng vô thường,
Trăm dòng dâu bể.
Đạo - đời hai vai gánh trễ
Tôn phong một dạ sắt son.
Biết mấy ai hiểu thấu đường mòn
Biết mấy ai đồng thương lý tưởng.
Nhưng Ngài!
Một lão nông tăng ẩn mình xa phố thượng
Một bậc cổ đức khiêm nhường giữa trời cao.
Đức hạnh sáng như sao.
Trí huệ hàm tợ hải.

Ôi thôi!
Nguyệt ẩn vân trung
Nhẹ gót sen vàng vĩnh biệt
Tùng thuỳ thị diệt
Quảy dép thiên lộ vô vi.
Từ nay!
Âm Duy-Thức còn đâu thầm thì
Tiếng Di-Đà chẳng nghe rõ đặng.

Nguyện linh giác Hoà thượng:
Tái hiện “Cờ Thiêng”
Phất năm châu nhuận màu hoàng sắc
Trùng tuyên “Phật Pháp”
Hoà bốn bể cộng mộc liên trì.
Mẫn chứng từ bi
Thuỳ tâm tỏ thấu
Đưa chúng con đến bờ vô lậu
Nâng muôn loại tảo xuất ái hà.
Vài dòng thiết tha
Hoà nam bái bạch.
Nam mô Lâm Tế tứ thập tam thế, Trùng kiến Sắc Tứ Phước Điền đường thượng, Sung Thuyền Hoà hội chủ, huý thượng Tâm hạ Nguyên, hiệu Chơn Trí Trần công Đại Lão Hoà thượng Giác Linh thuỳ từ chứng giám.

Đà Nẵng, ngày buồn mùa Phật Đản 2024
Hậu học GĐPT VN
Tâm An – Đinh Công Thanh Minh
Bái biệt ân sư


ht chon tri (2)
Phật Pháp 4 cấp - tài liệu gối đầu cho biết bao thanh thiếu niên Phật tử xuất bản lần đầu tiên năm 1951 do HT Thích Minh Châu, HT Thích Thiên Ân, HT Thích Đức Tâm và HT Thích Chơn Trí đồng tác giả.

ht chon tri (3)ht chon tri (4)

Tác phẩm ý nghĩa Cờ Phật giáo do HT Thích Chơn Trí soạn lục được xuất bản năm 1957 - PL2501




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 5638)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 9382)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 6018)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 26728)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 11052)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 8057)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 8008)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8097)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]