Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

04/02/202416:00(Xem: 1205)
Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

 

 LỄ TƯỞNG NIỆM

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH THẮNG HOAN
do Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL

tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Banstown, NSW
10:30am - Chủ Nhật 04/02/2024

---o0o---

 

 

- Phật tử tề tựu

- Cung An Chức Sự  & cung thỉnh Chư Tôn Đức (ĐĐ Đăng Nghĩa)

- Cử ba hồi chuông trống bát nhã

- Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm

- Tuyên bố lý do và giới thiệu  thành phần tham dự (MC TT Nguyên Tạng)

- Lời khai mạc buổi lễ (TT Phó Ban Tổ Chức Thích Đạo Hiển)

- Cung tuyên tiểu sử (HT Thích Nguyên Trực)

- Điện Thư Phân Ưu của GH Úc Châu (HT Phó Hội Chủ Thích Như Định)

- Thơ tưởng niệm HT Thắng Hoan (Thơ của HT Nhật Tân, TT Phổ Hương diễn đọc)

- Nhạc phẩm Chuông Tỉnh Thức” Thơ của HT Thắng Hoan, do Ca Sĩ Nhất Luân phổ nhạc và trình bày

- Lời Đạo Tình Pháp Lữ của Chư Tôn Đức Úc Châu (HT Thích Quảng Ba)

- Lễ Cúng Tiến Giác Linh (TV Nghi Lễ Giáo Hội, HT Hội Chủ Thích Tâm Minh chủ sám)

- Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức  (HT Thích Bổn Điền)

- Hồi hướng & chụp hình lưu niệm (Nhiếp ảnh viên: Quảng Hội)



***

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG HẢI NGOẠI TẠI ÚC ĐẠI LỢI VÀ TÂN TÂY LAN

(GHPGVNTNHN TẠI UĐL& TTL)


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch Hòa Thượng Đệ Nhất Chứng Minh Thích Quảng Ba – Tu Viện Trưởng Tu Viện Vạn Hạnh – Canberra.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Bổn Điền- Chánh thư ký- HĐCM-CV: GHPGVNTNHN TẠI UĐL & TTL

Kính thưa Hòa Thượng Thích Tâm Minh, Hội Chủ điều hành – GHPGVNTHHN TẠI UĐL & TTL

Ngưỡng bái bạch trên Chư Tôn Hòa Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni.


Kính thưa toàn thể quý Đồng hương và Phật tử - hiện diện trong khung già lam chùa Huyền Quang sáng hôm nay; ngày 4 tháng 2 năm 2024 (nhằm  ngày 25 tháng chạp năm Quý Mão).

Kính bạch quý Ngài!

Kính thưa liệt quý vị

 Giáo hội Hoa kỳ ngàn thu vắng bóng,

Liên châu Phật giáo, nhuộm khí tang buồn,

Giáo hội úc châu, còn vương đương nhiệm.

Tào khê rẽ lối, khúc ca vô thường

Giáo hội ngửa nghiêng, ưu đàm nhạt sắc

Răng rơi môi lạnh, huyễn thân chia lìa

Kiếp người dâng hiến trọn tình linh sơn.

Như một mặt trời vừa khuất bóng để lại một màn đêm còn nóng bức, giữa bầu trời oai bức của khí tiết mùa hè đông bộ Úc châu, đã thể nghiệm được sự vô thường ngắn ngủi thời gian trần thế. Như ánh vầng dương vừa ló dạng đã làm liệm tắt màn tối vô minh, không sắc của cuộc đời. Giáo hội úc châu khi nghe tin Hòa Thượng thượng Thắng hạ Hoan (1928 – 2024), Thuận thế vô thường, ngay vào lúc Tăng Ni tại NSW và ACT Bố tát tại chùa Thiên Ấn. Chư Tôn Đức Tăng Ni rất bàng hoàn và xúc động, khi hay tin Hòa Thượng viên tịch.  Hòa Thượng Thích Quảng Ba đã tức tốc liên lạc với Hòa Thượng Thích Minh Dung tại Hoa Kỳ, để theo dõi tình hình cho chương trình tang lễ. Chánh thư ký văn phòng HĐCM- CV Hòa Thượng Thích Bổn Điền cùng Hội Đồng điều hành Giáo Hội Úc Châu, Hội Chủ Hòa Thượng Thích Tâm Minh hợp khẩn, quyết định ra Thông báo triệu tập lễ tri niệm này.

Truyền thống kỷ niệm của Giáo hội Úc châu khi có các bậc Cao tăng, thạc đức trưởng thượng quy tây, đều làm lễ tưởng niệm, cũng để thầm răn dạy cho toàn thể Tăng ni trẻ trong Giáo hội chúng ta, noi theo công hạnh của người tiền nhân đã tu trì và giữ lấy giềng mối của Đạo pháp. Để duy trì tinh thần sinh hoạt chung của cộng đồng Tăng lữ, quy tắc thiền môn hay đạo phong khả kính của các bậc tiền nhân đã nằm xuống và để lại. Đó là tinh thần nhập thế cao đẹp nhất của vai trò người con sứ giả Đức Như lai.

Đây là giá trị đích thực để chúng ta tổ chức lễ kỷ niệm về ngài, góp một phần tha lực tín ngưỡng nhất tâm cầu nguyện theo truyền thống Phật giáo đại thừa. Nhằm thể hiện sự tôn kính giáo dục, mang ý nghĩa tình linh sơn cốt nhục của văn hóa cữa thiền, cũng là bài học cho hậu thế và hàng Phật tử tại gia, tạc dạ đạo lý uốn nước nhớ nguồn. Để chúng ta ôn lại bài học vô thường, nhằm ý thức rằng chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì cho đạo pháp, cho Giáo hội, mà các vị Tổ sư đã để lại cho chúng ta? Hãy nói cho thể hệ trẻ trong tương lai rằng: Một Đạo Phật hiện hữu như ngày hôm nay, là truyền thống văn hóa được xây đắp bằng con tim khối óc, lẫn cả xương máu và tính mạng của bậc Tiền nhân, mở mang Phật pháp, xây dựng tiền đồ đến các nước Tây phương này.

Kính bạch quý ngài!

Kính thưa quý liệt vị!

Cuộc đời của Đức Cố Hòa Thượng Trưởng Lão Thích Thắng Hoan là một bản trường ca sinh động, để Giáo hội và tăng ni phải học tập và noi gương. Cuộc sống của Ngài là một bậc xuất trần thượng sĩ, đồng ấu xuất gia, tại việt nam rồi ly hương theo làn sóng tỵ nạn của người con Việt Nam. Nhân duyên bổ xứ, Ngài định cư tại đất nước Hoa kỳ. Hòa Thượng đã trải qua gần một thế kỷ trong cuộc đời, chứng kiến biết bao nhiêu sự thay ngôi, đổi chúa cùng sự biến thiên của xã hội. Cuộc sống là động nhưng lòng ngài không động, đời sống của ngài được sâu kết thành một chuỗi dài lịch sử từ Á sang Tây. Sống trong một hiệp chủng quốc văn minh vật chất hàng đầu thế giới, nhưng không vì đó mà bị đắm chìm trong vật chất; tu không chùa, sống vì Giáo hội không phân biệt Nam – Bắc hai thừa. Dành trọn vẹn cuộc đời hi hiến cho Giáo hội, nghiên cứu tu tập cho trước tác phiên dịch, sự hưng vong của đạo pháp cùng dân tộc việt Nam quốc nội và tại Hoa Kỳ.

Đạo nghiệp của ngài là một nhà Duy thức luôn tầm cầu quán chiếu sự biến thiên của vạn pháp, như là sự hoạt động của Tiền Ngũ Thức trong thế giới đầy biến đổi của sum la vạn tượng này. Đó chính là hành trạng của ngài để lại cho hậu thế.

Nhớ lại: khi còn sinh hoạt những Phật sự Giáo hội gặp nhiều thăng trầm, Hòa Thượng Thắng Hoan cùng chư huynh đệ luôn luôn đứng bên nhau, để chèo con thuyền của Giáo hội và tìm hướng bước ra khỏi phong ba bão táp. Đặc biệt những thập niên 2008 đến 2012, sau giáo chỉ số 9 ra đời. Nội công ngoại kích, làm cho tinh hình Phật giáo thế giới lúc này có nhiều biến động, nhưng với sự nhiệt tâm hi hiến cho đạo pháp và tài đức vẹn tròn của các ngài trong Giáo hội các Châu:   

Như là:  Cố Hòa Thượng Hội Chủ thượng Như hạ Huệ - Giáo Hội Úc Châu

             Cố Hòa Thượng Chủ Tịch thượng Minh hạ Tâm – Giáo Hội Âu Châu

và nay là: Cố Hòa thượng Chủ Tịch thượng Thắng hạ Hoan – Giáo Hội Hoa Kỳ.

đã nhẹ nhàng lái con thuyền cập bến trong sự bình an, hài hòa và tương kính. Mặc dù có bất đồng chính kiến trong Tăng đoàn hoặc của Giáo hội, nhưng sự bất đồng đó không cho phép dẫn đến sự chia rẽ. Đó là trách nhiệm và vai trò tôn trọng với nhau, thể hiện tinh thần nghiêm trì giới luật của người con đệ tử Phật. Vì tương lai Phật pháp, vì sự hòa hợp như nước với sữa, vì hậu bối truyền đăng tục diệm, mà ngài phải vượt qua những sóng gió thị phi ở đời để chèo con thuyền Giáo hội.

Ngài ra đi là một mất mác rất lớn cho Phật Giáo nói chung, và Giáo hội Hoa kỳ nói riêng. Nhưng đối  với Giáo hội Úc Châu chúng ta cũng đã thọ ân của ngài rất nhiều; Hòa Thượng là Thành viên Hội Đồng Chứng Minh PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL -TTL  từ năm (1999 - 2024) là trọn 25 năm. Một khoảng thời gian rất lớn cho sự chứng minh gia bị, hoằng dương Phật pháp cho Giáo hội chúng ta.

Do đó, chúng ta là người hậu bối phải cùng nhau xây dựng, giữ lấy truyền thống của Thầy tổ và tiền nhân để lại. Đặc biệt tri ân Hòa Thượng Chánh thư ký- HĐCM – CV Thích Bổn Điền cùng sự dứt khoát tinh tế của Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tâm Minh mới đem lại buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh và hòa hợp. Để nhất tâm hướng về:

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Trí Bản Đột Không Pháp Phái, Đệ Nhị Thập Tứ Thế, Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ Giáo Hội, Giáo Phẩm Hội Đồng Chánh Văn Phòng, Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi Và Tân Tây Lan. Húy thượng Thắng hạ Hoan, Hiệu Long Hoan. Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Nghê Đài Thùy Từ Chứng Giám.

Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát ma Ha Tát.

Sydney ngày 4/2/2024

Khể Thủ

Tỳ Kheo Thích Đạo Hiển



 

 

tuong niem-ht thang hoan (1)tuong niem-ht thang hoan (2)tuong niem-ht thang hoan (3)tuong niem-ht thang hoan (4)tuong niem-ht thang hoan (5)tuong niem-ht thang hoan (6)tuong niem-ht thang hoan (7)tuong niem-ht thang hoan (8)tuong niem-ht thang hoan (9)tuong niem-ht thang hoan (10)tuong niem-ht thang hoan (11)tuong niem-ht thang hoan (12)tuong niem-ht thang hoan (13)tuong niem-ht thang hoan (14)tuong niem-ht thang hoan (16)tuong niem-ht thang hoan (17)tuong niem-ht thang hoan (18)tuong niem-ht thang hoan (19)tuong niem-ht thang hoan (21)tuong niem-ht thang hoan (22)tuong niem-ht thang hoan (23)tuong niem-ht thang hoan (24)tuong niem-ht thang hoan (25)tuong niem-ht thang hoan (26)tuong niem-ht thang hoan (27)tuong niem-ht thang hoan (28)tuong niem-ht thang hoan (29)tuong niem-ht thang hoan (30)tuong niem-ht thang hoan (31)tuong niem-ht thang hoan (32)tuong niem-ht thang hoan (33)tuong niem-ht thang hoan (34)tuong niem-ht thang hoan (35)tuong niem-ht thang hoan (36)tuong niem-ht thang hoan (37)tuong niem-ht thang hoan (38)tuong niem-ht thang hoan (39)tuong niem-ht thang hoan (40)tuong niem-ht thang hoan (41)tuong niem-ht thang hoan (42)tuong niem-ht thang hoan (43)tuong niem-ht thang hoan (44)tuong niem-ht thang hoan (45)tuong niem-ht thang hoan (46)tuong niem-ht thang hoan (47)tuong niem-ht thang hoan (48)tuong niem-ht thang hoan (49)tuong niem-ht thang hoan (50)tuong niem-ht thang hoan (51)tuong niem-ht thang hoan (52)tuong niem-ht thang hoan (53)tuong niem-ht thang hoan (54)tuong niem-ht thang hoan (55)tuong niem-ht thang hoan (56)tuong niem-ht thang hoan (57)tuong niem-ht thang hoan (58)tuong niem-ht thang hoan (59)tuong niem-ht thang hoan (60)tuong niem-ht thang hoan (61)tuong niem-ht thang hoan (62)tuong niem-ht thang hoan (63)tuong niem-ht thang hoan (64)tuong niem-ht thang hoan (65)tuong niem-ht thang hoan (66)tuong niem-ht thang hoan (67)tuong niem-ht thang hoan (68)tuong niem-ht thang hoan (69)tuong niem-ht thang hoan (70)tuong niem-ht thang hoan (71)tuong niem-ht thang hoan (72)tuong niem-ht thang hoan (73)tuong niem-ht thang hoan (74)tuong niem-ht thang hoan (75)tuong niem-ht thang hoan (76)tuong niem-ht thang hoan (77)tuong niem-ht thang hoan (78)tuong niem-ht thang hoan (79)tuong niem-ht thang hoan (80)tuong niem-ht thang hoan (81)tuong niem-ht thang hoan (82)tuong niem-ht thang hoan (83)tuong niem-ht thang hoan (84)tuong niem-ht thang hoan (85)tuong niem-ht thang hoan (86)tuong niem-ht thang hoan (87)tuong niem-ht thang hoan (88)tuong niem-ht thang hoan (89)tuong niem-ht thang hoan (90)tuong niem-ht thang hoan (91)tuong niem-ht thang hoan (92)tuong niem-ht thang hoan (93)tuong niem-ht thang hoan (94)tuong niem-ht thang hoan (95)tuong niem-ht thang hoan (96)tuong niem-ht thang hoan (97)tuong niem-ht thang hoan (98)tuong niem-ht thang hoan (99)tuong niem-ht thang hoan (100)tuong niem-ht thang hoan (101)tuong niem-ht thang hoan (102)tuong niem-ht thang hoan (103)tuong niem-ht thang hoan (104)tuong niem-ht thang hoan (105)tuong niem-ht thang hoan (106)tuong niem-ht thang hoan (107)tuong niem-ht thang hoan (108)tuong niem-ht thang hoan (109)tuong niem-ht thang hoan (110)tuong niem-ht thang hoan (111)tuong niem-ht thang hoan (112)tuong niem-ht thang hoan (113)tuong niem-ht thang hoan (114)tuong niem-ht thang hoan (115)tuong niem-ht thang hoan (116)tuong niem-ht thang hoan (117)tuong niem-ht thang hoan (118)tuong niem-ht thang hoan (119)tuong niem-ht thang hoan (120)tuong niem-ht thang hoan (121)tuong niem-ht thang hoan (122)tuong niem-ht thang hoan (123)tuong niem-ht thang hoan (124)tuong niem-ht thang hoan (125)tuong niem-ht thang hoan (126)tuong niem-ht thang hoan (127)tuong niem-ht thang hoan (128)tuong niem-ht thang hoan (129)tuong niem-ht thang hoan (130)tuong niem-ht thang hoan (131)tuong niem-ht thang hoan (132)tuong niem-ht thang hoan (133)tuong niem-ht thang hoan (134)tuong niem-ht thang hoan (135)tuong niem-ht thang hoan (136)tuong niem-ht thang hoan (137)tuong niem-ht thang hoan (138)tuong niem-ht thang hoan (139)tuong niem-ht thang hoan (140)tuong niem-ht thang hoan (141)tuong niem-ht thang hoan (142)tuong niem-ht thang hoan (143)tuong niem-ht thang hoan (144)tuong niem-ht thang hoan (145)tuong niem-ht thang hoan (146)tuong niem-ht thang hoan (147)tuong niem-ht thang hoan (148)tuong niem-ht thang hoan (149)tuong niem-ht thang hoan (150)tuong niem-ht thang hoan (151)tuong niem-ht thang hoan (152)tuong niem-ht thang hoan (153)tuong niem-ht thang hoan (154)tuong niem-ht thang hoan (155)tuong niem-ht thang hoan (156)tuong niem-ht thang hoan (157)tuong niem-ht thang hoan (158)tuong niem-ht thang hoan (159)tuong niem-ht thang hoan (160)tuong niem-ht thang hoan (161)tuong niem-ht thang hoan (162)tuong niem-ht thang hoan (163)tuong niem-ht thang hoan (164)tuong niem-ht thang hoan (165)tuong niem-ht thang hoan (166)tuong niem-ht thang hoan (167)tuong niem-ht thang hoan (168)tuong niem-ht thang hoan (169)tuong niem-ht thang hoan (170)tuong niem-ht thang hoan (171)tuong niem-ht thang hoan (172)tuong niem-ht thang hoan (173)tuong niem-ht thang hoan (174)tuong niem-ht thang hoan (175)tuong niem-ht thang hoan (176)tuong niem-ht thang hoan (177)tuong niem-ht thang hoan (178)tuong niem-ht thang hoan (179)tuong niem-ht thang hoan (180)tuong niem-ht thang hoan (181)tuong niem-ht thang hoan (182)tuong niem-ht thang hoan (183)tuong niem-ht thang hoan (184)tuong niem-ht thang hoan (186)tuong niem-ht thang hoan (187)tuong niem-ht thang hoan (188)tuong niem-ht thang hoan (189)tuong niem-ht thang hoan (190)tuong niem-ht thang hoan (191)tuong niem-ht thang hoan (192)tuong niem-ht thang hoan (193)tuong niem-ht thang hoan (194)tuong niem-ht thang hoan (195)tuong niem-ht thang hoan (196)tuong niem-ht thang hoan (197)tuong niem-ht thang hoan (198)tuong niem-ht thang hoan (199)tuong niem-ht thang hoan (200)tuong niem-ht thang hoan (201)tuong niem-ht thang hoan (202)tuong niem-ht thang hoan (203)tuong niem-ht thang hoan (204)tuong niem-ht thang hoan (205)tuong niem-ht thang hoan (206)tuong niem-ht thang hoan (207)tuong niem-ht thang hoan (208)tuong niem-ht thang hoan (209)tuong niem-ht thang hoan (210)tuong niem-ht thang hoan (211)tuong niem-ht thang hoan (212)tuong niem-ht thang hoan (213)tuong niem-ht thang hoan (214)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 18210)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7649)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6475)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 5951)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6510)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7105)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 6921)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11124)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6183)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 6741)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]