Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

04/02/202416:00(Xem: 1215)
Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

 

 LỄ TƯỞNG NIỆM

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH THẮNG HOAN
do Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL

tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Banstown, NSW
10:30am - Chủ Nhật 04/02/2024

---o0o---

 

 

- Phật tử tề tựu

- Cung An Chức Sự  & cung thỉnh Chư Tôn Đức (ĐĐ Đăng Nghĩa)

- Cử ba hồi chuông trống bát nhã

- Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm

- Tuyên bố lý do và giới thiệu  thành phần tham dự (MC TT Nguyên Tạng)

- Lời khai mạc buổi lễ (TT Phó Ban Tổ Chức Thích Đạo Hiển)

- Cung tuyên tiểu sử (HT Thích Nguyên Trực)

- Điện Thư Phân Ưu của GH Úc Châu (HT Phó Hội Chủ Thích Như Định)

- Thơ tưởng niệm HT Thắng Hoan (Thơ của HT Nhật Tân, TT Phổ Hương diễn đọc)

- Nhạc phẩm Chuông Tỉnh Thức” Thơ của HT Thắng Hoan, do Ca Sĩ Nhất Luân phổ nhạc và trình bày

- Lời Đạo Tình Pháp Lữ của Chư Tôn Đức Úc Châu (HT Thích Quảng Ba)

- Lễ Cúng Tiến Giác Linh (TV Nghi Lễ Giáo Hội, HT Hội Chủ Thích Tâm Minh chủ sám)

- Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức  (HT Thích Bổn Điền)

- Hồi hướng & chụp hình lưu niệm (Nhiếp ảnh viên: Quảng Hội)



***

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG HẢI NGOẠI TẠI ÚC ĐẠI LỢI VÀ TÂN TÂY LAN

(GHPGVNTNHN TẠI UĐL& TTL)


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch Hòa Thượng Đệ Nhất Chứng Minh Thích Quảng Ba – Tu Viện Trưởng Tu Viện Vạn Hạnh – Canberra.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Bổn Điền- Chánh thư ký- HĐCM-CV: GHPGVNTNHN TẠI UĐL & TTL

Kính thưa Hòa Thượng Thích Tâm Minh, Hội Chủ điều hành – GHPGVNTHHN TẠI UĐL & TTL

Ngưỡng bái bạch trên Chư Tôn Hòa Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni.


Kính thưa toàn thể quý Đồng hương và Phật tử - hiện diện trong khung già lam chùa Huyền Quang sáng hôm nay; ngày 4 tháng 2 năm 2024 (nhằm  ngày 25 tháng chạp năm Quý Mão).

Kính bạch quý Ngài!

Kính thưa liệt quý vị

 Giáo hội Hoa kỳ ngàn thu vắng bóng,

Liên châu Phật giáo, nhuộm khí tang buồn,

Giáo hội úc châu, còn vương đương nhiệm.

Tào khê rẽ lối, khúc ca vô thường

Giáo hội ngửa nghiêng, ưu đàm nhạt sắc

Răng rơi môi lạnh, huyễn thân chia lìa

Kiếp người dâng hiến trọn tình linh sơn.

Như một mặt trời vừa khuất bóng để lại một màn đêm còn nóng bức, giữa bầu trời oai bức của khí tiết mùa hè đông bộ Úc châu, đã thể nghiệm được sự vô thường ngắn ngủi thời gian trần thế. Như ánh vầng dương vừa ló dạng đã làm liệm tắt màn tối vô minh, không sắc của cuộc đời. Giáo hội úc châu khi nghe tin Hòa Thượng thượng Thắng hạ Hoan (1928 – 2024), Thuận thế vô thường, ngay vào lúc Tăng Ni tại NSW và ACT Bố tát tại chùa Thiên Ấn. Chư Tôn Đức Tăng Ni rất bàng hoàn và xúc động, khi hay tin Hòa Thượng viên tịch.  Hòa Thượng Thích Quảng Ba đã tức tốc liên lạc với Hòa Thượng Thích Minh Dung tại Hoa Kỳ, để theo dõi tình hình cho chương trình tang lễ. Chánh thư ký văn phòng HĐCM- CV Hòa Thượng Thích Bổn Điền cùng Hội Đồng điều hành Giáo Hội Úc Châu, Hội Chủ Hòa Thượng Thích Tâm Minh hợp khẩn, quyết định ra Thông báo triệu tập lễ tri niệm này.

Truyền thống kỷ niệm của Giáo hội Úc châu khi có các bậc Cao tăng, thạc đức trưởng thượng quy tây, đều làm lễ tưởng niệm, cũng để thầm răn dạy cho toàn thể Tăng ni trẻ trong Giáo hội chúng ta, noi theo công hạnh của người tiền nhân đã tu trì và giữ lấy giềng mối của Đạo pháp. Để duy trì tinh thần sinh hoạt chung của cộng đồng Tăng lữ, quy tắc thiền môn hay đạo phong khả kính của các bậc tiền nhân đã nằm xuống và để lại. Đó là tinh thần nhập thế cao đẹp nhất của vai trò người con sứ giả Đức Như lai.

Đây là giá trị đích thực để chúng ta tổ chức lễ kỷ niệm về ngài, góp một phần tha lực tín ngưỡng nhất tâm cầu nguyện theo truyền thống Phật giáo đại thừa. Nhằm thể hiện sự tôn kính giáo dục, mang ý nghĩa tình linh sơn cốt nhục của văn hóa cữa thiền, cũng là bài học cho hậu thế và hàng Phật tử tại gia, tạc dạ đạo lý uốn nước nhớ nguồn. Để chúng ta ôn lại bài học vô thường, nhằm ý thức rằng chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì cho đạo pháp, cho Giáo hội, mà các vị Tổ sư đã để lại cho chúng ta? Hãy nói cho thể hệ trẻ trong tương lai rằng: Một Đạo Phật hiện hữu như ngày hôm nay, là truyền thống văn hóa được xây đắp bằng con tim khối óc, lẫn cả xương máu và tính mạng của bậc Tiền nhân, mở mang Phật pháp, xây dựng tiền đồ đến các nước Tây phương này.

Kính bạch quý ngài!

Kính thưa quý liệt vị!

Cuộc đời của Đức Cố Hòa Thượng Trưởng Lão Thích Thắng Hoan là một bản trường ca sinh động, để Giáo hội và tăng ni phải học tập và noi gương. Cuộc sống của Ngài là một bậc xuất trần thượng sĩ, đồng ấu xuất gia, tại việt nam rồi ly hương theo làn sóng tỵ nạn của người con Việt Nam. Nhân duyên bổ xứ, Ngài định cư tại đất nước Hoa kỳ. Hòa Thượng đã trải qua gần một thế kỷ trong cuộc đời, chứng kiến biết bao nhiêu sự thay ngôi, đổi chúa cùng sự biến thiên của xã hội. Cuộc sống là động nhưng lòng ngài không động, đời sống của ngài được sâu kết thành một chuỗi dài lịch sử từ Á sang Tây. Sống trong một hiệp chủng quốc văn minh vật chất hàng đầu thế giới, nhưng không vì đó mà bị đắm chìm trong vật chất; tu không chùa, sống vì Giáo hội không phân biệt Nam – Bắc hai thừa. Dành trọn vẹn cuộc đời hi hiến cho Giáo hội, nghiên cứu tu tập cho trước tác phiên dịch, sự hưng vong của đạo pháp cùng dân tộc việt Nam quốc nội và tại Hoa Kỳ.

Đạo nghiệp của ngài là một nhà Duy thức luôn tầm cầu quán chiếu sự biến thiên của vạn pháp, như là sự hoạt động của Tiền Ngũ Thức trong thế giới đầy biến đổi của sum la vạn tượng này. Đó chính là hành trạng của ngài để lại cho hậu thế.

Nhớ lại: khi còn sinh hoạt những Phật sự Giáo hội gặp nhiều thăng trầm, Hòa Thượng Thắng Hoan cùng chư huynh đệ luôn luôn đứng bên nhau, để chèo con thuyền của Giáo hội và tìm hướng bước ra khỏi phong ba bão táp. Đặc biệt những thập niên 2008 đến 2012, sau giáo chỉ số 9 ra đời. Nội công ngoại kích, làm cho tinh hình Phật giáo thế giới lúc này có nhiều biến động, nhưng với sự nhiệt tâm hi hiến cho đạo pháp và tài đức vẹn tròn của các ngài trong Giáo hội các Châu:   

Như là:  Cố Hòa Thượng Hội Chủ thượng Như hạ Huệ - Giáo Hội Úc Châu

             Cố Hòa Thượng Chủ Tịch thượng Minh hạ Tâm – Giáo Hội Âu Châu

và nay là: Cố Hòa thượng Chủ Tịch thượng Thắng hạ Hoan – Giáo Hội Hoa Kỳ.

đã nhẹ nhàng lái con thuyền cập bến trong sự bình an, hài hòa và tương kính. Mặc dù có bất đồng chính kiến trong Tăng đoàn hoặc của Giáo hội, nhưng sự bất đồng đó không cho phép dẫn đến sự chia rẽ. Đó là trách nhiệm và vai trò tôn trọng với nhau, thể hiện tinh thần nghiêm trì giới luật của người con đệ tử Phật. Vì tương lai Phật pháp, vì sự hòa hợp như nước với sữa, vì hậu bối truyền đăng tục diệm, mà ngài phải vượt qua những sóng gió thị phi ở đời để chèo con thuyền Giáo hội.

Ngài ra đi là một mất mác rất lớn cho Phật Giáo nói chung, và Giáo hội Hoa kỳ nói riêng. Nhưng đối  với Giáo hội Úc Châu chúng ta cũng đã thọ ân của ngài rất nhiều; Hòa Thượng là Thành viên Hội Đồng Chứng Minh PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL -TTL  từ năm (1999 - 2024) là trọn 25 năm. Một khoảng thời gian rất lớn cho sự chứng minh gia bị, hoằng dương Phật pháp cho Giáo hội chúng ta.

Do đó, chúng ta là người hậu bối phải cùng nhau xây dựng, giữ lấy truyền thống của Thầy tổ và tiền nhân để lại. Đặc biệt tri ân Hòa Thượng Chánh thư ký- HĐCM – CV Thích Bổn Điền cùng sự dứt khoát tinh tế của Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tâm Minh mới đem lại buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh và hòa hợp. Để nhất tâm hướng về:

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Trí Bản Đột Không Pháp Phái, Đệ Nhị Thập Tứ Thế, Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ Giáo Hội, Giáo Phẩm Hội Đồng Chánh Văn Phòng, Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi Và Tân Tây Lan. Húy thượng Thắng hạ Hoan, Hiệu Long Hoan. Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Nghê Đài Thùy Từ Chứng Giám.

Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát ma Ha Tát.

Sydney ngày 4/2/2024

Khể Thủ

Tỳ Kheo Thích Đạo Hiển



 

 

tuong niem-ht thang hoan (1)tuong niem-ht thang hoan (2)tuong niem-ht thang hoan (3)tuong niem-ht thang hoan (4)tuong niem-ht thang hoan (5)tuong niem-ht thang hoan (6)tuong niem-ht thang hoan (7)tuong niem-ht thang hoan (8)tuong niem-ht thang hoan (9)tuong niem-ht thang hoan (10)tuong niem-ht thang hoan (11)tuong niem-ht thang hoan (12)tuong niem-ht thang hoan (13)tuong niem-ht thang hoan (14)tuong niem-ht thang hoan (16)tuong niem-ht thang hoan (17)tuong niem-ht thang hoan (18)tuong niem-ht thang hoan (19)tuong niem-ht thang hoan (21)tuong niem-ht thang hoan (22)tuong niem-ht thang hoan (23)tuong niem-ht thang hoan (24)tuong niem-ht thang hoan (25)tuong niem-ht thang hoan (26)tuong niem-ht thang hoan (27)tuong niem-ht thang hoan (28)tuong niem-ht thang hoan (29)tuong niem-ht thang hoan (30)tuong niem-ht thang hoan (31)tuong niem-ht thang hoan (32)tuong niem-ht thang hoan (33)tuong niem-ht thang hoan (34)tuong niem-ht thang hoan (35)tuong niem-ht thang hoan (36)tuong niem-ht thang hoan (37)tuong niem-ht thang hoan (38)tuong niem-ht thang hoan (39)tuong niem-ht thang hoan (40)tuong niem-ht thang hoan (41)tuong niem-ht thang hoan (42)tuong niem-ht thang hoan (43)tuong niem-ht thang hoan (44)tuong niem-ht thang hoan (45)tuong niem-ht thang hoan (46)tuong niem-ht thang hoan (47)tuong niem-ht thang hoan (48)tuong niem-ht thang hoan (49)tuong niem-ht thang hoan (50)tuong niem-ht thang hoan (51)tuong niem-ht thang hoan (52)tuong niem-ht thang hoan (53)tuong niem-ht thang hoan (54)tuong niem-ht thang hoan (55)tuong niem-ht thang hoan (56)tuong niem-ht thang hoan (57)tuong niem-ht thang hoan (58)tuong niem-ht thang hoan (59)tuong niem-ht thang hoan (60)tuong niem-ht thang hoan (61)tuong niem-ht thang hoan (62)tuong niem-ht thang hoan (63)tuong niem-ht thang hoan (64)tuong niem-ht thang hoan (65)tuong niem-ht thang hoan (66)tuong niem-ht thang hoan (67)tuong niem-ht thang hoan (68)tuong niem-ht thang hoan (69)tuong niem-ht thang hoan (70)tuong niem-ht thang hoan (71)tuong niem-ht thang hoan (72)tuong niem-ht thang hoan (73)tuong niem-ht thang hoan (74)tuong niem-ht thang hoan (75)tuong niem-ht thang hoan (76)tuong niem-ht thang hoan (77)tuong niem-ht thang hoan (78)tuong niem-ht thang hoan (79)tuong niem-ht thang hoan (80)tuong niem-ht thang hoan (81)tuong niem-ht thang hoan (82)tuong niem-ht thang hoan (83)tuong niem-ht thang hoan (84)tuong niem-ht thang hoan (85)tuong niem-ht thang hoan (86)tuong niem-ht thang hoan (87)tuong niem-ht thang hoan (88)tuong niem-ht thang hoan (89)tuong niem-ht thang hoan (90)tuong niem-ht thang hoan (91)tuong niem-ht thang hoan (92)tuong niem-ht thang hoan (93)tuong niem-ht thang hoan (94)tuong niem-ht thang hoan (95)tuong niem-ht thang hoan (96)tuong niem-ht thang hoan (97)tuong niem-ht thang hoan (98)tuong niem-ht thang hoan (99)tuong niem-ht thang hoan (100)tuong niem-ht thang hoan (101)tuong niem-ht thang hoan (102)tuong niem-ht thang hoan (103)tuong niem-ht thang hoan (104)tuong niem-ht thang hoan (105)tuong niem-ht thang hoan (106)tuong niem-ht thang hoan (107)tuong niem-ht thang hoan (108)tuong niem-ht thang hoan (109)tuong niem-ht thang hoan (110)tuong niem-ht thang hoan (111)tuong niem-ht thang hoan (112)tuong niem-ht thang hoan (113)tuong niem-ht thang hoan (114)tuong niem-ht thang hoan (115)tuong niem-ht thang hoan (116)tuong niem-ht thang hoan (117)tuong niem-ht thang hoan (118)tuong niem-ht thang hoan (119)tuong niem-ht thang hoan (120)tuong niem-ht thang hoan (121)tuong niem-ht thang hoan (122)tuong niem-ht thang hoan (123)tuong niem-ht thang hoan (124)tuong niem-ht thang hoan (125)tuong niem-ht thang hoan (126)tuong niem-ht thang hoan (127)tuong niem-ht thang hoan (128)tuong niem-ht thang hoan (129)tuong niem-ht thang hoan (130)tuong niem-ht thang hoan (131)tuong niem-ht thang hoan (132)tuong niem-ht thang hoan (133)tuong niem-ht thang hoan (134)tuong niem-ht thang hoan (135)tuong niem-ht thang hoan (136)tuong niem-ht thang hoan (137)tuong niem-ht thang hoan (138)tuong niem-ht thang hoan (139)tuong niem-ht thang hoan (140)tuong niem-ht thang hoan (141)tuong niem-ht thang hoan (142)tuong niem-ht thang hoan (143)tuong niem-ht thang hoan (144)tuong niem-ht thang hoan (145)tuong niem-ht thang hoan (146)tuong niem-ht thang hoan (147)tuong niem-ht thang hoan (148)tuong niem-ht thang hoan (149)tuong niem-ht thang hoan (150)tuong niem-ht thang hoan (151)tuong niem-ht thang hoan (152)tuong niem-ht thang hoan (153)tuong niem-ht thang hoan (154)tuong niem-ht thang hoan (155)tuong niem-ht thang hoan (156)tuong niem-ht thang hoan (157)tuong niem-ht thang hoan (158)tuong niem-ht thang hoan (159)tuong niem-ht thang hoan (160)tuong niem-ht thang hoan (161)tuong niem-ht thang hoan (162)tuong niem-ht thang hoan (163)tuong niem-ht thang hoan (164)tuong niem-ht thang hoan (165)tuong niem-ht thang hoan (166)tuong niem-ht thang hoan (167)tuong niem-ht thang hoan (168)tuong niem-ht thang hoan (169)tuong niem-ht thang hoan (170)tuong niem-ht thang hoan (171)tuong niem-ht thang hoan (172)tuong niem-ht thang hoan (173)tuong niem-ht thang hoan (174)tuong niem-ht thang hoan (175)tuong niem-ht thang hoan (176)tuong niem-ht thang hoan (177)tuong niem-ht thang hoan (178)tuong niem-ht thang hoan (179)tuong niem-ht thang hoan (180)tuong niem-ht thang hoan (181)tuong niem-ht thang hoan (182)tuong niem-ht thang hoan (183)tuong niem-ht thang hoan (184)tuong niem-ht thang hoan (186)tuong niem-ht thang hoan (187)tuong niem-ht thang hoan (188)tuong niem-ht thang hoan (189)tuong niem-ht thang hoan (190)tuong niem-ht thang hoan (191)tuong niem-ht thang hoan (192)tuong niem-ht thang hoan (193)tuong niem-ht thang hoan (194)tuong niem-ht thang hoan (195)tuong niem-ht thang hoan (196)tuong niem-ht thang hoan (197)tuong niem-ht thang hoan (198)tuong niem-ht thang hoan (199)tuong niem-ht thang hoan (200)tuong niem-ht thang hoan (201)tuong niem-ht thang hoan (202)tuong niem-ht thang hoan (203)tuong niem-ht thang hoan (204)tuong niem-ht thang hoan (205)tuong niem-ht thang hoan (206)tuong niem-ht thang hoan (207)tuong niem-ht thang hoan (208)tuong niem-ht thang hoan (209)tuong niem-ht thang hoan (210)tuong niem-ht thang hoan (211)tuong niem-ht thang hoan (212)tuong niem-ht thang hoan (213)tuong niem-ht thang hoan (214)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8242)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 6223)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 7248)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 13853)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 7248)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 8584)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 10845)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 5669)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7844)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
09/04/2013(Xem: 7052)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]