Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

04/02/202416:00(Xem: 1217)
Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

 

 LỄ TƯỞNG NIỆM

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH THẮNG HOAN
do Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL

tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Banstown, NSW
10:30am - Chủ Nhật 04/02/2024

---o0o---

 

 

- Phật tử tề tựu

- Cung An Chức Sự  & cung thỉnh Chư Tôn Đức (ĐĐ Đăng Nghĩa)

- Cử ba hồi chuông trống bát nhã

- Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm

- Tuyên bố lý do và giới thiệu  thành phần tham dự (MC TT Nguyên Tạng)

- Lời khai mạc buổi lễ (TT Phó Ban Tổ Chức Thích Đạo Hiển)

- Cung tuyên tiểu sử (HT Thích Nguyên Trực)

- Điện Thư Phân Ưu của GH Úc Châu (HT Phó Hội Chủ Thích Như Định)

- Thơ tưởng niệm HT Thắng Hoan (Thơ của HT Nhật Tân, TT Phổ Hương diễn đọc)

- Nhạc phẩm Chuông Tỉnh Thức” Thơ của HT Thắng Hoan, do Ca Sĩ Nhất Luân phổ nhạc và trình bày

- Lời Đạo Tình Pháp Lữ của Chư Tôn Đức Úc Châu (HT Thích Quảng Ba)

- Lễ Cúng Tiến Giác Linh (TV Nghi Lễ Giáo Hội, HT Hội Chủ Thích Tâm Minh chủ sám)

- Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức  (HT Thích Bổn Điền)

- Hồi hướng & chụp hình lưu niệm (Nhiếp ảnh viên: Quảng Hội)



***

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG HẢI NGOẠI TẠI ÚC ĐẠI LỢI VÀ TÂN TÂY LAN

(GHPGVNTNHN TẠI UĐL& TTL)


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch Hòa Thượng Đệ Nhất Chứng Minh Thích Quảng Ba – Tu Viện Trưởng Tu Viện Vạn Hạnh – Canberra.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Bổn Điền- Chánh thư ký- HĐCM-CV: GHPGVNTNHN TẠI UĐL & TTL

Kính thưa Hòa Thượng Thích Tâm Minh, Hội Chủ điều hành – GHPGVNTHHN TẠI UĐL & TTL

Ngưỡng bái bạch trên Chư Tôn Hòa Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni.


Kính thưa toàn thể quý Đồng hương và Phật tử - hiện diện trong khung già lam chùa Huyền Quang sáng hôm nay; ngày 4 tháng 2 năm 2024 (nhằm  ngày 25 tháng chạp năm Quý Mão).

Kính bạch quý Ngài!

Kính thưa liệt quý vị

 Giáo hội Hoa kỳ ngàn thu vắng bóng,

Liên châu Phật giáo, nhuộm khí tang buồn,

Giáo hội úc châu, còn vương đương nhiệm.

Tào khê rẽ lối, khúc ca vô thường

Giáo hội ngửa nghiêng, ưu đàm nhạt sắc

Răng rơi môi lạnh, huyễn thân chia lìa

Kiếp người dâng hiến trọn tình linh sơn.

Như một mặt trời vừa khuất bóng để lại một màn đêm còn nóng bức, giữa bầu trời oai bức của khí tiết mùa hè đông bộ Úc châu, đã thể nghiệm được sự vô thường ngắn ngủi thời gian trần thế. Như ánh vầng dương vừa ló dạng đã làm liệm tắt màn tối vô minh, không sắc của cuộc đời. Giáo hội úc châu khi nghe tin Hòa Thượng thượng Thắng hạ Hoan (1928 – 2024), Thuận thế vô thường, ngay vào lúc Tăng Ni tại NSW và ACT Bố tát tại chùa Thiên Ấn. Chư Tôn Đức Tăng Ni rất bàng hoàn và xúc động, khi hay tin Hòa Thượng viên tịch.  Hòa Thượng Thích Quảng Ba đã tức tốc liên lạc với Hòa Thượng Thích Minh Dung tại Hoa Kỳ, để theo dõi tình hình cho chương trình tang lễ. Chánh thư ký văn phòng HĐCM- CV Hòa Thượng Thích Bổn Điền cùng Hội Đồng điều hành Giáo Hội Úc Châu, Hội Chủ Hòa Thượng Thích Tâm Minh hợp khẩn, quyết định ra Thông báo triệu tập lễ tri niệm này.

Truyền thống kỷ niệm của Giáo hội Úc châu khi có các bậc Cao tăng, thạc đức trưởng thượng quy tây, đều làm lễ tưởng niệm, cũng để thầm răn dạy cho toàn thể Tăng ni trẻ trong Giáo hội chúng ta, noi theo công hạnh của người tiền nhân đã tu trì và giữ lấy giềng mối của Đạo pháp. Để duy trì tinh thần sinh hoạt chung của cộng đồng Tăng lữ, quy tắc thiền môn hay đạo phong khả kính của các bậc tiền nhân đã nằm xuống và để lại. Đó là tinh thần nhập thế cao đẹp nhất của vai trò người con sứ giả Đức Như lai.

Đây là giá trị đích thực để chúng ta tổ chức lễ kỷ niệm về ngài, góp một phần tha lực tín ngưỡng nhất tâm cầu nguyện theo truyền thống Phật giáo đại thừa. Nhằm thể hiện sự tôn kính giáo dục, mang ý nghĩa tình linh sơn cốt nhục của văn hóa cữa thiền, cũng là bài học cho hậu thế và hàng Phật tử tại gia, tạc dạ đạo lý uốn nước nhớ nguồn. Để chúng ta ôn lại bài học vô thường, nhằm ý thức rằng chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì cho đạo pháp, cho Giáo hội, mà các vị Tổ sư đã để lại cho chúng ta? Hãy nói cho thể hệ trẻ trong tương lai rằng: Một Đạo Phật hiện hữu như ngày hôm nay, là truyền thống văn hóa được xây đắp bằng con tim khối óc, lẫn cả xương máu và tính mạng của bậc Tiền nhân, mở mang Phật pháp, xây dựng tiền đồ đến các nước Tây phương này.

Kính bạch quý ngài!

Kính thưa quý liệt vị!

Cuộc đời của Đức Cố Hòa Thượng Trưởng Lão Thích Thắng Hoan là một bản trường ca sinh động, để Giáo hội và tăng ni phải học tập và noi gương. Cuộc sống của Ngài là một bậc xuất trần thượng sĩ, đồng ấu xuất gia, tại việt nam rồi ly hương theo làn sóng tỵ nạn của người con Việt Nam. Nhân duyên bổ xứ, Ngài định cư tại đất nước Hoa kỳ. Hòa Thượng đã trải qua gần một thế kỷ trong cuộc đời, chứng kiến biết bao nhiêu sự thay ngôi, đổi chúa cùng sự biến thiên của xã hội. Cuộc sống là động nhưng lòng ngài không động, đời sống của ngài được sâu kết thành một chuỗi dài lịch sử từ Á sang Tây. Sống trong một hiệp chủng quốc văn minh vật chất hàng đầu thế giới, nhưng không vì đó mà bị đắm chìm trong vật chất; tu không chùa, sống vì Giáo hội không phân biệt Nam – Bắc hai thừa. Dành trọn vẹn cuộc đời hi hiến cho Giáo hội, nghiên cứu tu tập cho trước tác phiên dịch, sự hưng vong của đạo pháp cùng dân tộc việt Nam quốc nội và tại Hoa Kỳ.

Đạo nghiệp của ngài là một nhà Duy thức luôn tầm cầu quán chiếu sự biến thiên của vạn pháp, như là sự hoạt động của Tiền Ngũ Thức trong thế giới đầy biến đổi của sum la vạn tượng này. Đó chính là hành trạng của ngài để lại cho hậu thế.

Nhớ lại: khi còn sinh hoạt những Phật sự Giáo hội gặp nhiều thăng trầm, Hòa Thượng Thắng Hoan cùng chư huynh đệ luôn luôn đứng bên nhau, để chèo con thuyền của Giáo hội và tìm hướng bước ra khỏi phong ba bão táp. Đặc biệt những thập niên 2008 đến 2012, sau giáo chỉ số 9 ra đời. Nội công ngoại kích, làm cho tinh hình Phật giáo thế giới lúc này có nhiều biến động, nhưng với sự nhiệt tâm hi hiến cho đạo pháp và tài đức vẹn tròn của các ngài trong Giáo hội các Châu:   

Như là:  Cố Hòa Thượng Hội Chủ thượng Như hạ Huệ - Giáo Hội Úc Châu

             Cố Hòa Thượng Chủ Tịch thượng Minh hạ Tâm – Giáo Hội Âu Châu

và nay là: Cố Hòa thượng Chủ Tịch thượng Thắng hạ Hoan – Giáo Hội Hoa Kỳ.

đã nhẹ nhàng lái con thuyền cập bến trong sự bình an, hài hòa và tương kính. Mặc dù có bất đồng chính kiến trong Tăng đoàn hoặc của Giáo hội, nhưng sự bất đồng đó không cho phép dẫn đến sự chia rẽ. Đó là trách nhiệm và vai trò tôn trọng với nhau, thể hiện tinh thần nghiêm trì giới luật của người con đệ tử Phật. Vì tương lai Phật pháp, vì sự hòa hợp như nước với sữa, vì hậu bối truyền đăng tục diệm, mà ngài phải vượt qua những sóng gió thị phi ở đời để chèo con thuyền Giáo hội.

Ngài ra đi là một mất mác rất lớn cho Phật Giáo nói chung, và Giáo hội Hoa kỳ nói riêng. Nhưng đối  với Giáo hội Úc Châu chúng ta cũng đã thọ ân của ngài rất nhiều; Hòa Thượng là Thành viên Hội Đồng Chứng Minh PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL -TTL  từ năm (1999 - 2024) là trọn 25 năm. Một khoảng thời gian rất lớn cho sự chứng minh gia bị, hoằng dương Phật pháp cho Giáo hội chúng ta.

Do đó, chúng ta là người hậu bối phải cùng nhau xây dựng, giữ lấy truyền thống của Thầy tổ và tiền nhân để lại. Đặc biệt tri ân Hòa Thượng Chánh thư ký- HĐCM – CV Thích Bổn Điền cùng sự dứt khoát tinh tế của Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tâm Minh mới đem lại buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh và hòa hợp. Để nhất tâm hướng về:

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Trí Bản Đột Không Pháp Phái, Đệ Nhị Thập Tứ Thế, Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ Giáo Hội, Giáo Phẩm Hội Đồng Chánh Văn Phòng, Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi Và Tân Tây Lan. Húy thượng Thắng hạ Hoan, Hiệu Long Hoan. Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Nghê Đài Thùy Từ Chứng Giám.

Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát ma Ha Tát.

Sydney ngày 4/2/2024

Khể Thủ

Tỳ Kheo Thích Đạo Hiển



 

 

tuong niem-ht thang hoan (1)tuong niem-ht thang hoan (2)tuong niem-ht thang hoan (3)tuong niem-ht thang hoan (4)tuong niem-ht thang hoan (5)tuong niem-ht thang hoan (6)tuong niem-ht thang hoan (7)tuong niem-ht thang hoan (8)tuong niem-ht thang hoan (9)tuong niem-ht thang hoan (10)tuong niem-ht thang hoan (11)tuong niem-ht thang hoan (12)tuong niem-ht thang hoan (13)tuong niem-ht thang hoan (14)tuong niem-ht thang hoan (16)tuong niem-ht thang hoan (17)tuong niem-ht thang hoan (18)tuong niem-ht thang hoan (19)tuong niem-ht thang hoan (21)tuong niem-ht thang hoan (22)tuong niem-ht thang hoan (23)tuong niem-ht thang hoan (24)tuong niem-ht thang hoan (25)tuong niem-ht thang hoan (26)tuong niem-ht thang hoan (27)tuong niem-ht thang hoan (28)tuong niem-ht thang hoan (29)tuong niem-ht thang hoan (30)tuong niem-ht thang hoan (31)tuong niem-ht thang hoan (32)tuong niem-ht thang hoan (33)tuong niem-ht thang hoan (34)tuong niem-ht thang hoan (35)tuong niem-ht thang hoan (36)tuong niem-ht thang hoan (37)tuong niem-ht thang hoan (38)tuong niem-ht thang hoan (39)tuong niem-ht thang hoan (40)tuong niem-ht thang hoan (41)tuong niem-ht thang hoan (42)tuong niem-ht thang hoan (43)tuong niem-ht thang hoan (44)tuong niem-ht thang hoan (45)tuong niem-ht thang hoan (46)tuong niem-ht thang hoan (47)tuong niem-ht thang hoan (48)tuong niem-ht thang hoan (49)tuong niem-ht thang hoan (50)tuong niem-ht thang hoan (51)tuong niem-ht thang hoan (52)tuong niem-ht thang hoan (53)tuong niem-ht thang hoan (54)tuong niem-ht thang hoan (55)tuong niem-ht thang hoan (56)tuong niem-ht thang hoan (57)tuong niem-ht thang hoan (58)tuong niem-ht thang hoan (59)tuong niem-ht thang hoan (60)tuong niem-ht thang hoan (61)tuong niem-ht thang hoan (62)tuong niem-ht thang hoan (63)tuong niem-ht thang hoan (64)tuong niem-ht thang hoan (65)tuong niem-ht thang hoan (66)tuong niem-ht thang hoan (67)tuong niem-ht thang hoan (68)tuong niem-ht thang hoan (69)tuong niem-ht thang hoan (70)tuong niem-ht thang hoan (71)tuong niem-ht thang hoan (72)tuong niem-ht thang hoan (73)tuong niem-ht thang hoan (74)tuong niem-ht thang hoan (75)tuong niem-ht thang hoan (76)tuong niem-ht thang hoan (77)tuong niem-ht thang hoan (78)tuong niem-ht thang hoan (79)tuong niem-ht thang hoan (80)tuong niem-ht thang hoan (81)tuong niem-ht thang hoan (82)tuong niem-ht thang hoan (83)tuong niem-ht thang hoan (84)tuong niem-ht thang hoan (85)tuong niem-ht thang hoan (86)tuong niem-ht thang hoan (87)tuong niem-ht thang hoan (88)tuong niem-ht thang hoan (89)tuong niem-ht thang hoan (90)tuong niem-ht thang hoan (91)tuong niem-ht thang hoan (92)tuong niem-ht thang hoan (93)tuong niem-ht thang hoan (94)tuong niem-ht thang hoan (95)tuong niem-ht thang hoan (96)tuong niem-ht thang hoan (97)tuong niem-ht thang hoan (98)tuong niem-ht thang hoan (99)tuong niem-ht thang hoan (100)tuong niem-ht thang hoan (101)tuong niem-ht thang hoan (102)tuong niem-ht thang hoan (103)tuong niem-ht thang hoan (104)tuong niem-ht thang hoan (105)tuong niem-ht thang hoan (106)tuong niem-ht thang hoan (107)tuong niem-ht thang hoan (108)tuong niem-ht thang hoan (109)tuong niem-ht thang hoan (110)tuong niem-ht thang hoan (111)tuong niem-ht thang hoan (112)tuong niem-ht thang hoan (113)tuong niem-ht thang hoan (114)tuong niem-ht thang hoan (115)tuong niem-ht thang hoan (116)tuong niem-ht thang hoan (117)tuong niem-ht thang hoan (118)tuong niem-ht thang hoan (119)tuong niem-ht thang hoan (120)tuong niem-ht thang hoan (121)tuong niem-ht thang hoan (122)tuong niem-ht thang hoan (123)tuong niem-ht thang hoan (124)tuong niem-ht thang hoan (125)tuong niem-ht thang hoan (126)tuong niem-ht thang hoan (127)tuong niem-ht thang hoan (128)tuong niem-ht thang hoan (129)tuong niem-ht thang hoan (130)tuong niem-ht thang hoan (131)tuong niem-ht thang hoan (132)tuong niem-ht thang hoan (133)tuong niem-ht thang hoan (134)tuong niem-ht thang hoan (135)tuong niem-ht thang hoan (136)tuong niem-ht thang hoan (137)tuong niem-ht thang hoan (138)tuong niem-ht thang hoan (139)tuong niem-ht thang hoan (140)tuong niem-ht thang hoan (141)tuong niem-ht thang hoan (142)tuong niem-ht thang hoan (143)tuong niem-ht thang hoan (144)tuong niem-ht thang hoan (145)tuong niem-ht thang hoan (146)tuong niem-ht thang hoan (147)tuong niem-ht thang hoan (148)tuong niem-ht thang hoan (149)tuong niem-ht thang hoan (150)tuong niem-ht thang hoan (151)tuong niem-ht thang hoan (152)tuong niem-ht thang hoan (153)tuong niem-ht thang hoan (154)tuong niem-ht thang hoan (155)tuong niem-ht thang hoan (156)tuong niem-ht thang hoan (157)tuong niem-ht thang hoan (158)tuong niem-ht thang hoan (159)tuong niem-ht thang hoan (160)tuong niem-ht thang hoan (161)tuong niem-ht thang hoan (162)tuong niem-ht thang hoan (163)tuong niem-ht thang hoan (164)tuong niem-ht thang hoan (165)tuong niem-ht thang hoan (166)tuong niem-ht thang hoan (167)tuong niem-ht thang hoan (168)tuong niem-ht thang hoan (169)tuong niem-ht thang hoan (170)tuong niem-ht thang hoan (171)tuong niem-ht thang hoan (172)tuong niem-ht thang hoan (173)tuong niem-ht thang hoan (174)tuong niem-ht thang hoan (175)tuong niem-ht thang hoan (176)tuong niem-ht thang hoan (177)tuong niem-ht thang hoan (178)tuong niem-ht thang hoan (179)tuong niem-ht thang hoan (180)tuong niem-ht thang hoan (181)tuong niem-ht thang hoan (182)tuong niem-ht thang hoan (183)tuong niem-ht thang hoan (184)tuong niem-ht thang hoan (186)tuong niem-ht thang hoan (187)tuong niem-ht thang hoan (188)tuong niem-ht thang hoan (189)tuong niem-ht thang hoan (190)tuong niem-ht thang hoan (191)tuong niem-ht thang hoan (192)tuong niem-ht thang hoan (193)tuong niem-ht thang hoan (194)tuong niem-ht thang hoan (195)tuong niem-ht thang hoan (196)tuong niem-ht thang hoan (197)tuong niem-ht thang hoan (198)tuong niem-ht thang hoan (199)tuong niem-ht thang hoan (200)tuong niem-ht thang hoan (201)tuong niem-ht thang hoan (202)tuong niem-ht thang hoan (203)tuong niem-ht thang hoan (204)tuong niem-ht thang hoan (205)tuong niem-ht thang hoan (206)tuong niem-ht thang hoan (207)tuong niem-ht thang hoan (208)tuong niem-ht thang hoan (209)tuong niem-ht thang hoan (210)tuong niem-ht thang hoan (211)tuong niem-ht thang hoan (212)tuong niem-ht thang hoan (213)tuong niem-ht thang hoan (214)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2013(Xem: 5941)
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
11/04/2013(Xem: 11021)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
10/04/2013(Xem: 7618)
Ngày 15-2-1965, tôi và thầy Chơn Thanh cũng như các học Tăng khác từ các nơi tập trung về Phật học viện Huệ Nghiêm dự thi tuyển vào khóa II của Phật học viện. Thầy thì từ Phật học đường Phổ Quang Gia Định đến, tôi thì từ Phật học đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh lên, tất cả cùng một chí hướng, một mục đích và một ước nguyện là thi đậu vào Phật học viện. Kết quả, thầy thi đậu lớp Sơ trung 2, tôi thi đậu vào lớp Sơ trung 1
10/04/2013(Xem: 9533)
Kính dâng Hoà Thượng Thích Tịch Tràng, để nhớ công ơn giáo dưỡng - Tôi ra thắp nhang nơi tháp mộ của Người, ngồi bên tháp rêu phong, vôi vữa đã lở ra từng mảng, đường nét đơn sơ giản dị như cuộc đời giản dị của Thầy, lòng chợt bâng khuâng nhớ thương thầy vô hạn. Tôi tự hỏi: “Động cơ nào đã thôi thúc Thầy nguyên là một vị giáo sư Pháp văn ưu tú con nhà quý tộc ở xứ Quảng, lại cắt ngang con đường công danh sự nghiệp, để vào đây nối bước theo chân Tổ mà nối đuốc đưa mọi người qua khỏi bóng đêm vô minh dày đặc và biến nơi đây thành một quê hương tâm linh cho tất cả ngưỡng vọng hướng về”.
10/04/2013(Xem: 8758)
Một sinh thể đã xuất hiện trong cuộc đời như chưa từng có, đến lúc từ giã ra đi cũng thật nhẹ nhàng như cánh nhạn lưng trời. Vốn xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, được bẩm thụ cái gen của tổ phụ từng nổi tiếng văn chương, lại hấp thụ tinh hoa của địa linh sông Hương, núi Ngự - một vùng đất được xem là cái nôi của văn hóa Phật giáo miền Trung. Khi trưởng thành, thể hiện phong thái của một bậc nữ lưu tài sắc vẹn toàn, nhưng túc duyên thôi thúc, sớm rõ lẽ vô thường, dễ dàng từ bỏ cảnh phú quí vinh hoa, hâm mộ nếp sống Thiền môn thanh đạm.
10/04/2013(Xem: 6623)
Cư sĩ Tâm Minh- Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-nay là tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan.Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự đức.
10/04/2013(Xem: 7125)
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
10/04/2013(Xem: 11234)
Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD.
10/04/2013(Xem: 6950)
Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.
10/04/2013(Xem: 12085)
Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết - Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap - Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sau Tương chao nhà quê Tăng Lữ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]