Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Giờ Quý Giá Bên Hòa Thượng Thích Giác Quang

09/04/202315:39(Xem: 4324)
Hai Giờ Quý Giá Bên Hòa Thượng Thích Giác Quang



ht giac quang 1

Tôi nhận được bản thảo cuốn sách “Phật pháp vấn đáp” của Hòa thượng Thích Giác Quang dày 500 trang và tôi đoc sơ ngay lập tức bản thảo này. Thú thật rằng là người đọc nhiều, nhưng ngay cả với tôi, nhiều điều được Hòa thượng giảng giải ở đây, bây giờ tôi mới hiểu, hoặc hiểu đúng. Bản thân tôi, dù mới tu tập chưa lâu nhưng vẫn thấy rằng rất nhiều người dân đất Việt, kể cả các Phật tử, nhất là miền Bắc, đang hiểu sai về Đức Phật và các giáo lý của Ngài. Hiểu sai một cách nghiêm trọng, thậm chí đang làm ngược lại cả những gì Đức Phật dạy. Vậy nên tôi đang cố công biên soạn cuốn sách hỏi đáp đơn giản và cơ bản nhất về Đức Phật và đạo Phật. Mừng thay, có bản thảo cuốn sách giá trị này, tôi hơn vớ được vàng.

Tôi thu xếp thời gian quyết từ Hà Nội bay vào Sài Gòn và tìm đến gặp trực tiếp Hòa thượng Thích Giác Quang. Thầy ở tỉnh Đồng Nai không xa Sài Gòn lắm nên việc đến thăm, đảnh lễ Hòa thượng cũng thuận lợi. Vậy là tôi quyết định đưa theo 4 học trò đến gặp Hòa thượng, cũng mong các trò thêm thiện duyên để tăng bồ đề tâm, quyết chí tu hành hơn nữa.

Chúng tôi đến tu viện Quan Âm thì trời đổ mưa. Em Bích Liên, Giám đốc văn phòng Thái Hà Books TP HCM vào hỏi thăm quý thầy trong tu viện để đến gặp Hòa thượng theo hẹn trước. Rồi chúng tôi bước vào. Hòa thượng Thích Giác Quang đón chúng tôi từ cửa.

Bất ngờ đầu tiên của tôi rằng nơi ở của Hòa thượng quá đơn giản. Một căn phòng nhỏ, đơn sơ nằm phía trong cùng của dãy nhà cấp bốn. Tôi hơi giật mình vì không nghĩ đây là phòng của một Hòa thượng nổi tiếng, phó ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai, đã viết trên 40 đầu sách, thường xuyên đi giảng Pháp.

Khi chúng tôi đến thì điện mất. Hòa thượng mở cửa sổ cho chút ánh sáng cuối ngày của trời đang mưa lọt vào. Các quý thầy mang đến một chiếc đèn nạp điện. Thầy trò ngồi trong bóng tối không nhìn rõ nhau lắm. Rồi thêm 1 chiếc đèn nữa, lại 1 chiếc nữa được bổ sung. Ánh sáng tăng dần. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã quen với bóng tối. Quả thật, thầy trò nói chuyện với nhau rất thân mật và ấm cúng nên tôi cũng không quan tâm đến chuyện sáng tối. Tôi chỉ muốn tận dụng tốt nhất quãng thời gian hiếm hoi này để bên Thầy, để hỏi Thầy một số thứ, để mong Thầy hướng dẫn thêm về tu tập, nhất là để cho 4 trò đi theo được lợi ích cao nhất. Một lần gặp là một lần khó mà.

Tôi bị cuốn hút bởi nụ cười rất tự nhiên, giòn tan, đầy năng lượng từ Hòa thượng Thích Giác Quang. Nụ cười của Thầy phúc hậu lắm, đẹp lắm, thật không thể tả được. Nụ cười hiền hậu ấy tỏa ra từ khuôn mặt tràn đầy từ bi của Thầy. Nói thật tôi chỉ muốn ngồi mà ngắm khuôn mặt ấy, nụ cười ấy mà thôi. Các học trò của tôi như bị hút hồn. Em Hoài, biên tập viên, hoàn toàn bị cuốn hút. Sau này, trên đường về, em tâm sự rằng chưa từng gặp một vị tu sỹ nào phúc hậu và tràn đầy từ bi và năng lượng như vậy.

Chúng tôi ngồi nghe Hòa thượng Thích Giác Quang nói chuyện và giảng giải mà đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Điều đơn giản nhất là các từ sử dụng cho cơ sở thờ tự và tu học của Phật giáo như chùa, tu viện, thiền viện, tịnh xá, tinh xá, tăng xá, ni viện, thiền tự, tịnh thất, niệm Phật đường, cổ tự, tổ đình được Hòa thượng giảng rất dễ hiểu và rõ ràng. Chúng tôi giờ đây biết rõ rằng tinh xá là nơi cất giữ kinh sách giống như tàng kinh các. Các em đồng nghiệp đến bây giờ mới hiểu rằng tu viện là nơi mà các quý tăng và ni của Phật giáo Tịnh độ tu tập (giống như thiền viện của bên thiền tông và tịnh xá của phái Khất sỹ). Tôi cũng không thể tin nổi rằng nơi chúng tôi đang ngồi – Quan Âm tu viện có đến 280 quý tăng và ni đang thường trú tu học. Tôi phải hỏi lại Hòa thượng Thích Giác Quang đến 3 lần vì sợ mình nghe nhầm, hoặc tưởng đây là trường hạ để quý thầy quý sư cô đang an cư kiết hạ.

Tôi cũng giật mình: Hình như ngoài miền Bắc, vốn dĩ Tịnh độ phát triển rất mạnh nhưng chưa có một tu viện nào. Tôi hình như chưa biết đến một ngôi chùa hay cơ sở tu tập và thờ tự nào ở ngoài Bắc mà có đến mấy trăm nhà sư tu học như ở đây. Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng ra rằng nếu 280 nhà sư này mà ra hoằng pháp ngoài miền Bắc thì tuyệt vời biết nhường nào, bởi ở ngoài miền bắc của chúng tôi , ít chùa có trên 10 nhà sư. Thậm chí có quý sư phải trụ trì đến vài ngôi chùa.

Tôi giật mình quay lại câu chuyện của Hòa thượng Thích Giác Quang về lý do tại sao thầy lại đắp y vàng theo phái Khất sỹ. Hóa ra thầy của Hòa thượng là huynh đệ với Tổ sư Minh Đăng Quang. Và thế là tôi lại được nghe thêm một lần nữa về vị Tổ sư phái Khất sỹ tuyệt vời này, lại được biết thêm, nhớ thêm về những điểm ưu việt của phái Khất sỹ rất Việt Nam. Phải nói rằng tôi đã từng nghe Hòa thượng Thích Giác Toàn, rồi ni trưởng Thích Giác Liên nói chuyện về phái Khất sỹ và về tổ sư Minh Đăng Quang, nhưng những lời từ Hòa thượng hôm nay rất lạ, rất ấn tượng, rất đặc biệt.

Phần tiếp theo chúng tôi được hiểu thêm về ngài thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư Nguyên Thiều là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Hóa ra thiền sư là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên. Nói thật rằng tôi chỉ biết đến phái Lâm Tế Liễu Quán ở Huế chứ ít biết về phái Lâm Tế ở đàng trong này. Nhờ Hòa thượng Thích Giác Quang mà chúng tôi biết hơn về thiền sư Nguyên Thiều. và có lẽ tôi sẽ cần nghiên cứu, cần đọc thêm nhiều về vị Thiến sư mà tôi ít biết này.

Điểm chú ý nhất đối với các bạn trẻ tháp tùng tôi trong chuyến thăm và đảnh lễ Hòa thượng Thích Giác Quang là nghe Hòa thượng giảng về câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, trong 4 câu kệ trong kinh A Hàm “Thiên thượng thiên hạ; Duy ngã độc tôn; Nhất thiết thế gian; Sanh lão bệnh tử” tức dịch là “Trên trời dưới trời; Ta là trên hết; Tất cả thế gian; Sanh già bệnh chết”.

Những người chưa học Phật hay học chưa sâu thường hiểu rằng chữ “ngã” ở đây ám chỉ Đức Phật, rằng chỉ có Đức Phật là bậc đáng kính, đáng được tôn sùng nhất. Vì Ngài đã giác ngộ hoàn toàn, đã giải thoát hoàn toàn, đã thoát khỏi vòng luân hồi sinh già bệnh chết. Thật là tội nghiệp cho Đức Phật bị chúng sinh si mê hiểu sai. Mà nếu đúng vậy thì Ngài quá tự phụ.

Chúng sinh vô minh thường cho rằng ta là trên hết, cái ngã là chúa tể. là trường tồn, là vĩnh cửu nên sinh ra mê chấp, yêu mến cái thân này. Ta luôn bênh vực cho cái ta, bảo vệ cái ta và những gì thuộc về ta. Đức Phật là người đã chỉ ra rằng cái ta đó là bản ngã, là vọng ngã, rằng thân này là giả, là giả hợp. Có duyên thì hội tụ, hết duyên thì tan.

Đức Phật nói về cái chân ngã, cái ngã bất sinh bất diệt, cãi ngã giác ngộ. Rằng chính ta quyết định đời sống của ta, không ai có thể làm cho ta giàu lên hay nghèo đi, hạnh phúc hay bất hạnh. Chính ta tự quyết định có điều phục tham, sân, sy để tiến đến Niết bàn hay không. Nếu ta không tu thì ta sa đọa và tự dẫn mình vào 3 đường ác. Chính câu nói này cũng giúp ta, người đọc, người nghe thức tỉnh, tự giác, tự ngộ về giá trị làm người. Chúng ta hiểu rằng trên trời dưới trời này, đời sống của con người có giá trị tự mình định đoạt. Vậy nên ta nên dành thời gian tìm hiểu giá trị của chính mình chứ đừng tốn công tốn sức tìm những giá trị nằm ngoài con người mình.

Hòa thượng cũng giảng cho chúng tôi rõ thêm về tứ nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Đây là bốn pháp quan trọng để nhiếp phục chúng sinh, thu phục lòng người. Thật là quý giá.


ht giac quang 2



Nhờ Hòa thượng Thích Giác Quang, chúng tôi mới hiểu rõ hơn về Tịnh độ Non Bồng, về Linh Sơn Phật giáo, về thầy tổ của Hòa thượng. Hòa thượng còn bảo chúng tôi, nếu muốn thầy có thể đưa về thăm tổ đình nơi Bà Rịa Vũng Tàu. Tôi đồng ý ngay và muốn đi cùng Hòa thượng ngay thứ 7 và chủ nhật tuần này. Tiếc thay, khi xem lại lịch, cả thứ 7 và chủ nhật Hòa thượng đều có việc bận với sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai và 1 khóa tu đã ấn định trước. Hòa thượng dặn tôi liên lac lại qua điện thoại. Tôi chắp tay và thực sự mong muốn cùng được về tổ đình với Hòa thượng trước khi về lại Hà Nội.

Trời đã tối hẳn. Điện đã có từ cách đây 1 giờ đồng hồ. Hóa ra chúng tôi đã ngồi bên Hòa thượng Thích Giác Quang 2 tiếng. Thời gian bên Hòa thượng 2 tiếng thì có đến quãng một tiếng mất điện, ngồi trong bóng tối và 1 tiếng có ánh sáng. Trong 2 tiếng ấy chúng tôi học được nhiều lắm. Cái được nhiều nhất có lẽ là học phong thái điềm đạm, nhẹ nhàng, phúc hậu từ Hòa thượng. Cái được nhiều nhất là thực thấy một trí tuệ lớn, những hiểu biết cao mà đơn giản, được bên một người Thầy đáng kính.

Tiễn chúng tôi, Hòa thượng Thích Giác Quang đứng ngoài sân nói chuyện khá lâu. Thầy giới thiệu sơ về Quan Âm tu viện và việc tu hành của 280 quý tăng ni tại đây.

Chúng tôi ra về mà lòng xốn xang. Chúng tôi mang theo mình một gia tài quý giá, một kho lương khô để ăn dần. 5 thầy trò chúng tôi ai cũng hoan hỷ, nhất là các em Bích Liên, Nguyên Minh, Hoài và Công. Tôi thì nghĩ đến duyên lành có cơ hội xuất bản và tái bản kho tri thức của Thầy. Rồi đây chúng sinh sẽ được đọc những gì Thầy giảng, để dần bớt vô minh, để giác ngộ từng bước, để giải thoát từng phần.

Một ý nữa mà tôi không thể không viết ra ở cuối bài này, rằng tôi và bạn chắc chắn đã từng nghe đến “thiền - tịnh song tu” đúng không ạ. Tuy nhiên, bây giờ bạn sẽ được biết, giống như tôi hôm thứ 5 vừa rồi, rằng chính Hòa thượng Thích Giác Quang là người đang cổ súy rất mạnh mẽ cho môn phái này. Nếu bạn muốn tu theo pháp môn này, nơi mà bạn cần tìm đến là Quan Âm tu viện, người mà bạn cần gặp nhất chính là người Thầy đáng kính mà chúng tôi đã có may mắn mới được gặp trong quãng 2 tiếng đồng hồ quý giá. Nếu đường xá xa xôi quá, xin bạn chuẩn bị đón đọc cuốn sách quý, đảm bảo rất thiết thực với tựa đề “Phật pháp vấn đáp”. Và bạn cũng sẽ thấy Hòa thượng rất rõ trong đó.

Trong não tôi lúc này đây đang vang lên những vần thơ, những câu kệ, với lòng biết ơn Hòa thượng Thích Giác Quang và hơn 100 phút quý giá:

“Việc đời nên gác để ngoài tai

Việc đạo nên chăng vẫn học hoài

Giáo pháp ngàn xưa còn vang đó

Tánh chân thường trụ kiến Như Lai”.

TS Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty sách Thái Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2013(Xem: 6048)
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
11/04/2013(Xem: 11367)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
10/04/2013(Xem: 7859)
Ngày 15-2-1965, tôi và thầy Chơn Thanh cũng như các học Tăng khác từ các nơi tập trung về Phật học viện Huệ Nghiêm dự thi tuyển vào khóa II của Phật học viện. Thầy thì từ Phật học đường Phổ Quang Gia Định đến, tôi thì từ Phật học đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh lên, tất cả cùng một chí hướng, một mục đích và một ước nguyện là thi đậu vào Phật học viện. Kết quả, thầy thi đậu lớp Sơ trung 2, tôi thi đậu vào lớp Sơ trung 1
10/04/2013(Xem: 9733)
Kính dâng Hoà Thượng Thích Tịch Tràng, để nhớ công ơn giáo dưỡng - Tôi ra thắp nhang nơi tháp mộ của Người, ngồi bên tháp rêu phong, vôi vữa đã lở ra từng mảng, đường nét đơn sơ giản dị như cuộc đời giản dị của Thầy, lòng chợt bâng khuâng nhớ thương thầy vô hạn. Tôi tự hỏi: “Động cơ nào đã thôi thúc Thầy nguyên là một vị giáo sư Pháp văn ưu tú con nhà quý tộc ở xứ Quảng, lại cắt ngang con đường công danh sự nghiệp, để vào đây nối bước theo chân Tổ mà nối đuốc đưa mọi người qua khỏi bóng đêm vô minh dày đặc và biến nơi đây thành một quê hương tâm linh cho tất cả ngưỡng vọng hướng về”.
10/04/2013(Xem: 8992)
Một sinh thể đã xuất hiện trong cuộc đời như chưa từng có, đến lúc từ giã ra đi cũng thật nhẹ nhàng như cánh nhạn lưng trời. Vốn xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, được bẩm thụ cái gen của tổ phụ từng nổi tiếng văn chương, lại hấp thụ tinh hoa của địa linh sông Hương, núi Ngự - một vùng đất được xem là cái nôi của văn hóa Phật giáo miền Trung. Khi trưởng thành, thể hiện phong thái của một bậc nữ lưu tài sắc vẹn toàn, nhưng túc duyên thôi thúc, sớm rõ lẽ vô thường, dễ dàng từ bỏ cảnh phú quí vinh hoa, hâm mộ nếp sống Thiền môn thanh đạm.
10/04/2013(Xem: 6787)
Cư sĩ Tâm Minh- Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-nay là tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan.Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự đức.
10/04/2013(Xem: 7239)
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
10/04/2013(Xem: 11377)
Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD.
10/04/2013(Xem: 7055)
Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.
10/04/2013(Xem: 12193)
Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết - Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap - Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sau Tương chao nhà quê Tăng Lữ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]