Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử HT Thích Ngộ Khải, Chứng minh BTS GHPGVN Thị Xã An Nhơn – Bình Định Viện Chủ Chùa Thiên An

24/04/202209:24(Xem: 1760)
Tiểu Sử HT Thích Ngộ Khải, Chứng minh BTS GHPGVN Thị Xã An Nhơn – Bình Định Viện Chủ Chùa Thiên An

ht thich ngo khai

T
IỂU SỬ
HÒA THƯỢNG THÍCH
NGỘ KHẢI

Chứng minh BTS GHPGVN Thị Xã An Nhơn – Bình Định

Viện Chủ Chùa Thiên An

 

 A. THÂN THẾ.

Hoà thượng họ Trần, huý Văn Chương, Pháp danh Thị Trình, tự Hạnh Chơn, hiệu Ngộ Khải. Hoà thượng sinh năm Bính Tuất (1946) trong một gia đình thâm tín Phật giáo tại thôn An Lợi, xã Phước Thắng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Thân phụ là Cụ ông Trần Nhơn pháp danh Thị Thiện, thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Đẩu, pháp danh Thị Đâu. Hoà thượng là con thứ bảy trong một gia đình có 8 anh chị em. Gia đình Hòa thượng đều là Phật tử thuần thành tại Tổ đình Thiên Bình, xã Nhơn Phong, thị xã An Nhơn, tinh Bình Định.

 

B. THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO.

Vốn có túc duyên với Phật pháp, từ nhỏ Hòa thượng thường theo cha mẹ về lễ bái, tụng kinh, tu học tại Tổ đình Thiên Bình. Sau một thời gian cảm mến Phật pháp, với tâm nguyện thoát tục mạnh mẽ, vào năm 13 tuổi (1959) Hòa thượng đã được song thân cho phép được xuất gia tu học với cố Hòa thượng Thích Tâm Đạt, bậc Cao Tăng đức độ, trú trì Tổ đình Thiên Bình.

Kể từ khi được Bổn Sư thế độ, Hòa thượng ngày đêm kinh kệ miệt mài, công phu chấp tác chuyên cần, sớm hôm canh tác ruộng đồng cùng đại chúng.

Năm 1968, Hòa thượng được Bổn Sư cho phép thọ giới Sa di tại Đại giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại Tổ đình Long Khánh do Cố Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm đàn đầu.

Sau một thời gian xuất gia tu học, Hoà thượng được Bổn Sư cho phép theo học Phật pháp tại Phật học Viện Nguyên Thiều và Tổ đình Long Khánh, tốt nghiệp Phật học viện và Tú Tài 2 vào năm 1971.

Năm 1973, Hòa thượng được thọ giới cụ túc tại Đại giới đàn Phước Huệ tổ chức tại Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang cũng do Cố Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm đàn đầu.

 

C. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO:

 I. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ:

Sau khi thọ giới, theo sự chỉ dạy của Hoà thượng Bổn Sư và sự tin tưởng của sư huynh là cố Hoà thượng Thích Liễu Không, Hoà thượng được bổ nhiệm làm trú trì chùa Chi Hội An Nhơn vào năm 1973.

Kể từ khi trụ trì chùa Chi Hội An Nhơn, trong vai trò cố vấn giáo hạnh Gia đình Phật tử Nhơn Hưng (nay là Gia đình Phật tử A-dục) Hoà thượng thường mở các lớp giáo lý dạy cho các đoàn sinh Gia đình Phật tử, làm giáo viên dạy Phật pháp và Anh Văn tại các trường Bồ-đề trong tỉnh.

Thực hiện mô hình kinh tế tự túc cho Phật giáo địa phương Hoà thượng thành lập nhà in Sen Hồng, chuyên về in ấn văn hoá phẩm, đặc biệt văn hoá phẩm Phật giáo.

Sau năm 1975, trước những khó khăn chung của đất nước, Hoà thượng vừa hướng dẫn tín đồ tu học tại chùa Chi Hội An Nhơn, tổ chức các đại lễ Phật Đản của Phật giáo An Nhơn, tự túc kinh tế nhà chùa qua việc cắt giấy, đóng vở, in và phát hành sớ điệp và phái Quy y.

Từ năm 1989 đến năm 1992, Hoà thượng đã liên tục mỗi năm tổ chức các khoá an cư kiết hạ tại chùa Chi Hội An Nhơn, cung thỉnh cố Hoà thượng Thích Liễu Không làm Thiền chủ, là đạo tràng tu học trang nghiêm, miên mật của Chư Tôn thiền đức Tăng tại An Nhơn và các vùng phụ cận. Nhiều Tăng Ni sinh gần xa về tham dự các lớp Phật học trong các đạo tràng này.

Từ năm 1992 trở đi, Hoà thượng tổ chức khoá tu Bát Quan Trai, mỗi tháng hai kỳ, giảng dạy giáo lý, thuyết giảng Phật pháp cho tín đồ Phật tử tại trú xứ chùa Chi Hội An Nhơn. Các hoạt động Phật sự duy trì và phát triển khởi sắc cho đến hôm nay.

Trong cương vị trú trì chùa Chi Hội An Nhơn, văn phòng Ban Đại Diện Phật giáo An Nhơn, Hoà thượng tham gia vào Ban Đại Diện trong nhiều cương vị khác nhau.

Từ 1997 đến 2012, ngoài vai trò UV. BTS GHPGVN Tỉnh Bình Định; suốt ba nhiệm kỳ, Hoà thượng là Chánh Đại Diện Phật giáo huyện An Nhơn. Với phạm hạnh nghiêm cẩn và tâm lượng bao dung, trong suốt hai nhiệm kỳ lãnh đạo Phật giáo huyện nhà, Hoà thượg đã nhiếp chúng chu toàn mọi Phật sự, tạo nên năng lượng hoà hợp và trang nghiêm của Phật giáo An Nhơn.

Năm 2000, Hòa thượng được cung thỉnh vào hàng tôn chứng tại Đại giới đàn Chánh Nhơn.

Năm 2009, hội đủ duyên lành, Hoà thượng sang Ấn Độ chiêm bái các thánh tích Phật giáo tại hai miền Nam và bắc Ấn Độ.

Năm 2011, Ngài được tấn phong giáo phẩm Hoà thượng.

Ngoài việc tham gia các hoạt động Phật sự, Hoà thượng còn là đại biểu Hội đồng nhân dân, UBMTTQVN và Hội Chữ Thập đỏ thị xã An Nhơn nhiều nhiệm kỳ.

 

 

II. PHẬT SỰ TẠI CÁC CHÙA

Với tinh thần phụng sự chánh pháp vì lợi ích chung, Hoà thượng luôn nhiệt huyết trong việc hỗ trợ các trú xứ đơn chiếc và chưa có trụ trì. Hoà thượng được các bậc Tôn túc và Ban Hộ Tự các chùa trong tỉnh thỉnh mời đảm đương các Phật sự thiết yếu.

Năm 1992 Ban Hộ Tự chùa Phú Thọ tại thành phố Quy Nhơn thỉnh Hoà thượng về chăm lo Phật sự. Đến năm 1995 Ban Hộ Tự đã cung thỉnh Hoà thượng kiêm nhiệm trụ trì và được các cấp Giáo hội chuẩn y. Trong thời gian hơn mười năm (1992-2003) chăm lo tại chùa Phú Thọ, Hoà thượng đã khai hoang phục hoá, trùng tung nhà Tổ, kiến thiết khuôn viên, sắm sửa pháp khí, tổ chức khoá tu Bát Quan Trai mỗi tháng hai kỳ, thành lập gia đình Phật tử, chu toàn mọi sinh hoạt tín ngưỡng của bổn tự và bổn đạo và đồng bào Phật tử.

Năm 2000 Ban Hộ Tự chùa Dương Sơn tại Huyện Tuy Phước cung thỉnh Hoà thượng về chăm lo Phật sự, hướng dẫn việc tu học của tín đồ. Đáp lời thỉnh cầu, Hoà thượng đã không ngại khó khăn mỗi tháng đều có mặt hướng dẫn việc tu học, ngay cả những khi mùa lũ tràn về. Hoà thượng đã đứng ra vận động và xây dựng ngôi Đại hùng Bảo điện của chùa thật trang nghiêm.

Năm 2003, Hoà thượng Thích Như Bửu, vì tuổi cao sức yếu và bệnh duyên, đã cung thỉnh Hoà thượng đảm nhận vai trò kiêm nhiệm trú trì chùa Bửu Tháp tại xã Nhơn Mỹ, huyện An Nhơn. Hoà thượng đã xây dựng bảo tháp và lo tang lễ của Hoà thượng Như Bửu thật trang nghiêm, kiến thiết khuôn viên, xây dựng tường rào, dắt dẫn tín đồ quy hướng tu học.

Năm 2004 Cố Hoà thượng Thích Đồng Chơn, trú trì chùa Bình An đã cung thỉnh Hoà thượng kiêm nhiệm Phật sự chùa Kim An tại xã Nhơn Khánh, Huyện An Nhơn. Hoà thượng đã tận tâm chăm lo, kiến thiết lại khuôn viên chùa, sửa sang khu hậu tổ và khách phòng, sắm sửa pháp khí và hướng dẫn tín đồ sinh hoạt.

Ngoài ra, Hoà thượng còn kiêm nhiệm chăm lo Phật sự tại các ngôi chùa khác trong một thời gian dài, như chùa Thiên Long, chùa Kim Hoà, v.v…

Với chiếc xe honda cũ kỹ, vừa chu toàn Phật sự tại chùa Chi Hội, vừa chăm lo Phật sự, hướng dẫn đạo tràng Phật tử cho hơn 10 ngôi chùa gần xa, quả là một hạnh nguyện, một sự cống hiến cho Phật pháp thật cao cả.

 

III. HOÁ ĐỘ TỨ CHÚNG  

Hoà thượng là bậc nghiêm cẩn cương trực, nhưng cũng rất tâm lý và bao dung. Ngài rất ít nói, chuyên lấy thân giáo để nhiếp hóa và uốn nắn đạo hạnh của đại chúng. Vì lý do đó, rất nhiều Tăng Ni và Phật tử tìm về chùa Chi Hội An Nhơn để xin xuất gia làm đệ tử, hoặc y chỉ, hoặc quy y.  Ngài đã độ hơn 15 vị đệ tử Tăng, Ni xuất gia và hướng dẫn tu học cho rất nhiều Tăng chúng tại bổn tự.

Hoà thượng rất tâm huyết về sự nghiệp giáo dục Phật giáo. Ngài đã tạo mọi nhân duyên tốt nhất cho các đệ tử của mình đi tầm học nhiều nơi và đã có 6 vị tốt nghiệp học vị Tiến Sĩ từ các nước Ấn Độ và Trung Quốc. Hầu hết đệ tử của Ngài đều đang trụ trì tại nhiều trú xứ trong nước và tham gia nhiều Phật sự các cấp Giáo hội, đặc biệt là lĩnh vực Giáo dục Phật giáo.

Đối với quần chúng Phật tử, Hòa thượng đã trao truyền Tam quy Ngũ giới, và là tôn chứng Thập thiện giới và Bồ-tát giới tại gia cho rất nhiều Phật tử khắp nơi.

 

IV. KIẾN THIẾT TRÙNG TU:

Kể từ khi đảm nhận trú trì chùa Chi Hội An Nhơn, Hoà thượng luôn tâm huyết việc kiến thiết và trang nghiêm trú xứ. Ngài cùng gia đình mua hai căn nhà phía sau chùa, mở rộng khuôn viên, xây dựng khu nhà khách và Tăng phòng phục vụ cho việc an cư.

Năm 2004 đến 2006, Hoà thượng xây dựng khu Tổ đường và Tăng phòng khang trang.

Năm 2005, Hoà thượng vận động đúc Đại hồng chung chùa Chi Hội nặng 700 kg.

Năm 2006 Hoà thượng làm lễ đặt đá xây dựng công trình giảng đường và Chánh điện đến năm 2010 thì hoàn thành.

Năm 2011, Hoà thượng kiến nghị đổi tên chùa Chi Hội An Nhơn thành chùa Thiên An và đã được Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Bình Định và chính quyền tỉnh chuẩn thuận thông qua.

Từ năm 2017 đến năm 2021, suốt năm năm mùa An Cư, trong vai trò là thiền chủ đạo tràng an cư chùa Thiên An, tuy thân bệnh, Hoà thượng vẫn dự quá đường đều đặn, không vắng mặt một ngày nào.

 

V. VIÊN TỊCH:

Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 03 tháng 3 năm 2022 (nhằm mùng 01 tháng 02 năm Nhâm Dần) tại chùa Thiên An, phường Bình Định, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, trụ thế77 năm, hạ lạp49 năm.

 

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế, Thiên Bình Pháp Phái, Thiên An Đường Thượng, Huý thượng Thị hạ Trình, tự Hạnh Chơn, hiệu Ngộ Khải Hòa Thượng Giác Linh Liên Đài tọa hạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4901)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7202)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4227)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4862)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5636)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6233)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3857)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5301)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5349)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13015)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567