Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Nhất Hạnh đã về đã tới

24/01/202217:30(Xem: 3797)
Thiền Sư Nhất Hạnh đã về đã tới

Chan Dung Thien Su Thich Nhat Hanh

THIỀN SƯ NHẤT HẠNH

Đã về. Đã tới.

 

Người về như lá xưa về cội,

Vẫn áo nâu sòng thuở Huế xưa.

Nẻo Đạo đã về và đã tới!

Hoàn không Từ Hiếu vọng chuông chùa.

                                           (Nguyên Tâm)

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa viên tịch tại Huế lúc 00:00 giờ ngày 22- 01- 2022, ở tuổi 96 (1926-2022), tại chùa Từ Hiếu, Huế. Đây là ngôi chùa mà Thầy đã quy y thế phát xuất gia – trở về nương tựa Phật – đúng 80 năm về trước. Hình ảnh ra đi thanh tịnh nhất của một thiền sư trong truyền thống Phật giáo là: An nhiên thị tịch! (bình an ra đi trước mắt mọi người). Sư cô Chân Hiến Nghiêm, người Anh, hiện có mặt tại Pháp,thông báo rằng "lễ tang Thầy của chúng tôi sẽ được tổ chức ngay từ sáng Thứ Bảy, ở Huế và kéo dài 5 ngày”.

 

Tin Thiền sư Nhất Hạnh viên tịch đối với cộng đồng truyền thông chuyên nghiệp săn tin và đưa tin Việt Nam cũng như toàn cầu không phải là một tin thuộc hệ “giật gân” hay sốt dẻo theo cách nói thời thượng của thế hệ 5G. Nhưng tin Thầy ra đi tại chùa Từ Hiếu Huế, an lạc trở về với biển Đạo như vọng âm huyền diệu Ngôn Hoài của Thiền sư Không Lộ mà Thầy từng dịch: “… Có khi bước thẳng lên đầu núi – Hú dài một tiếng lạnh hư không.”  (Hữu thời trực thướng cô long đỉnh - Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư). Bao nhiêu năm qua, tuổi già và tuổi trẻ Việt Nam đã bước lên đầu núi thời cuộc đảo điên, đứng trên chót vót của niềm tin đang bị mây mù vây bủa. Đạo Phật thanh tịnh được ví von như mặt trời; danh tăng tròn công hạnh được quý ngưỡng như ngọn đuốc soi sáng nẻo đạo cứu khổ đời nầy và giài thoát đời sau. Những ngọn đuốc đạo pháp và nhân văn như Thích Thiên Ân, Thích Nữ Trí Hải, Thích Minh Châu, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh… lần lượt ra đi là những tiếng hú dài làm lạnh cả hư không.

 

            Trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam (U-70 – U-100), Thiền sư Nhất Hạnh là một nhân vật tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm nhất về cả ba mặt: Tâm linh, tinh thần và điệu sống. Khi Thầy còn tại thế cũng như sau ngày viên tịch, môi trường truyền thông đại chúng với tốc độ ánh sáng thời hiện đại đã bao lần dậy sóng. Ba đào nông nổi nhất thời đối mặt với an nhiên tự tại sâu thẳm của hai lực tương tác cộng tồn, cộng hưởng và cộng sinh của hý trường thị phi thế sự khen chê và sự im lặng sấm sét của bản tâm thầm lặng. Những lời bình luận muôn màu, muôn vẻ về cuộc đời, hành trạng và công hạnh của Thiền sư Nhất Hạnh có thể kết tập in thành pho sách lớn. Nhưng ba đào là bản chất của nhân thế mà thái hòa an lạc là thể tánh của biển khơi. Đạo Phật là biển lớn dung hóa mọi suối nguồn thác ghềnh sông lạch. Hai mươi sáu thế kỷ – 300 thế hệ con người – giáo sử đạo Phật đã chứng minh và cũng chỉ cần chứng minh “không lại hoàn không”… thịnh suy như giọt sương mai đầu cành (Thịnh suy nhự lộ thảo đầu phô - Vạn Hạnh Thiền sư).

 

            Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, loài người tăng nhanh hơn bảy tỷ nhưng bỗng thấy cô đơn! Trong khi những phương tiện khoa học kỹ thuật và cuộc cách mạng đầy vũ bão của giao thông vận tải và truyền thông đại chúng trên đà thần tốc toàn cầu hóa (miracle of globalization) thì hạnh phúc thật sự của con người đang bị thực tế chứng minh ngược lại “nhanh quá hoá cuồng”. Bởi phương tiện thần tốc (từ 1G tới 5G, 6G… trong vòng vài thập niên) giúp con người phản ứng nhanh như điện ngỡ tưởng đâu sẽ hoá giải dị biệt để hòa hợp sự phân hóa quốc gia và quốc tế nhanh chóng; nhưng thiên lương và phẩm hạnh con người không tác tạo bằng phương tiện kỹ thuật nên tình trạng phân cực (polarization) trong gia đình, nội bộ tổ chức, hệ thống xã hội, chính trị… trong phạm vi quốc gia và cộng đồng quốc tế ngày càng suy đồi nghiêm trọng. Ngược lại, sự cách ly cần thiết thì càng bị phản tác dụng như đại dịch Covid-19 đã lây lan khắp 200 quốc gia và vùng miền trên thế giới theo tốc độ… “sátna@com”!  Vai trò tôn giáo trong cuộc khủng hoảng thiên lương và niềm tin đó chỉ còn là dốc tâm cầu nguyện thôi chăng? Muốn đem tôn giáo vào cứu rỗi thực tế thì phải cần có sự phân định giữa thánh và phàm, hiện thực và mê tín, thanh lương và tạp loạn, cổ sơ và văn minh… Tam tạng kinh điển Phật giáo trùng trùng như núi, nhưng đó là ngọn núi Linh Sơn. Nơi đó, từ người mù chữ đến bậc đại trí đều hiểu được lẽ vô thường khổ nạn của cuộc sống để an tâm hành giả. Và, nơi đó không còn phân biệt phàm trí vì không còn chút tơ hào của tự tánh tồn tại nên ba nghìn thế giới cũng bằng không.

 

            Sự khác biệt lớn nhất giữa Thiền sư Nhất Hạnh và các Thiền sư, tu sĩ, học giả, trí thức Phật giáo đương thời là sự dấn thân hiện đại hóa Phật giáo. Đối ứng với sự phát triển nâng tầm cao, tầm rộng và sự gia tăng tốc độ của các ngành khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nhân văn, tôn giáo, giới nghiên cứu và học sĩ cũng tiến sâu, tiến xa vạn dặm để lý giải, suy diễn và sáng tạo những lý thuyết quá bí hiểm, khó hiểu và xa rời đường tu học. Tác phẩm Việt Nam: Hoa Sen Trong Biển Lửa (Vietnam: Lotus in a Sea of Fire) xuất bản năm 1967, Thầy Nhất Hạnh đã đưa ra khái niệm Đạo Phật dấn thân (Engaged Buddhism). Dấn thân để hiện đại hoá Phật giáo. Dấn thân để nhà tu, hành giả và học giả không tách xa quần chúng, không ngủ quên trong tháp ngà của ngã mạn, tu viện và học viện viễn mơ mà đến với cuộc đời hiện thực.

 

           Mỗi thời đều có những bậc luận sư, danh tăng và thiện chúng nói nghĩa chân thật, xưng tụng lời kinh và con người cùng tạo vật ái hòa đến độ: “Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái; lững lờ khe Yến cá nghe kinh…” ( Chu Mạnh Trinh – Hương Sơn Tức Cảnh). Giữa biển lửa của Chiến tranh Việt Nam, Thầy Nhất Hạnh đã ra đi đem tiếng gào Sư Tử Hống để nói tới cùng trời cuối đất: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác. Kẻ thù ta tên nó là vô lương… (Phạm Duy – Tâm Ca 7). Tiếng kêu ái hòa giữa cuộc chém giết máu sông, xương núi của hai phía anh em thù địch đã biến Thầy Nhất Hạnh thành nghịch thế, thành kẻ phản kháng của cả hai phe lâm chiến.

 

            Đạo Phật đến với thế giới phương Tây thật muộn màng. Hiện tượng nầy có thể lý giải qua tinh thần lịch sử luận lý học phương Tây. Đạo Thiên Chúa nói chung về các đại môn phái đều có một đấng Thượng Đế để tôn thờ. Hệ thống cấu trúc tâm linh của giáo quyền rất phù hợp và đi song song với hệ thống chính trị thế quyền; bởi vậy, tôn giáo đã tồn tại, phát triển và vinh danh qua những triều đại bá quyền thế giới. Trong lúc đó, đạo Phật xuất hiện như một khuynh hướng nghịch lý với thế quyền bởi áo nghĩa của nội thư không thừa nhận một Thượng Đế chí tôn và chủ trương “vạn pháp bình đẳng”, xóa bỏ giai cấp. Đạo Phật ở Ấn Độ và Âu Mỹ không có lý do nẩy mầm và phát triển trong một thế giới say sưa với tinh thần chinh phục, ngự trị và đấu tranh giai cấp. Mãi cho đến khi gần cuối mùa của giấc mơ chinh phục và ngự trị khoa học kỹ thuật đang già nua và ngấm ngầm nỗi loạn thì con người mới sáng mắt nhận ra đâu là giá trị của chân hạnh phúc đích thực. Đạo Phật đến với phương Tây tự nhiên và an hòa bởi tinh thần Từ bi và Trí tuệ. Chính bằng tấm lòng “lấy mắt thương nhìn cuộc đời”, bằng trí tuệ “tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất” và bằng thực tập chánh niệm cùng tỉnh thức để về sống với chính mình trong hiện tại và có cơ duyên khám phá Phật Tánh của một đức Phật tương lai đang chờ đợi và đã trải qua qua bao tiểu, trung, đại kiếp trong ta… đã là những nhân tố thuyết phục và chinh phục của đạo Phật đối với các nước Âu Mỹ. Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới phương Tây ưu ái vinh danh là “Cha Đẻ của Chánh Niệm” (Father of Mindfulness): Bước như hôn quả đất thân yêu dưới gót chân mình (walk as if you are kissing the Earth with your feet) là một “triết lý hiện sinh nhân bản” mà thế giới phương Tây vẫn thường nhắc đến khi nói về tinh thần Chánh Niệm qua lời Thầy Nhất Hạnh.

Su Ong Lang Mai-10

 

 

            Đã bao nhiêu năm, tôn giáo thường sống thuần trong lễ nghi và cầu nguyện siêu nhiên. Những nhà lý thuyết nhân văn thế giới đang tỉnh thức và muốn xắn tay áo rời xa tháp ngà kinh điển để nhập thế. Tuy đạo Phật từ thuở xa xưa đã có bao nhiêu bậc tôn giả, danh tăng thiền đức chủ trương “Bồ tát thỏng tay vào chợ…” để cứu khổ cho đời; thế nhưng đạo vẫn xa đời vì sợ vướng vào vòng tục lụy. Thầy Nhất Hạnh là một trong những hành giả xuất gia đầu tiên trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam chủ trương đem đạo vào đời mà không vướng mùi tục lụy. Từ những ngày rất sớm trong cuộc đời tu hành 80 năm, Thầy Nhất Hạnh đã tìm đến với Tình Người (Thi phẩm Tâm Quán), cùng hướng nhìn đầy kỳ vọng với thế hệ trẻ qua nỗ lực chung tay xây dựng Gia Đình Phật Tử, thành lập viện Đại học Vạn Hạnh, dựng Phương Bối Am, thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội; viết Nói Với Tuổi Hai Mươi, Nẻo Về của Ý…, vẽ ra những con đường nhập cuộc và ứng dụng lý thuyết, ước mơ vào hiện thực đời sống thời 1960 cho tuổi trẻ đã được (hay bị) xem là theo khuynh hướng “cách mạng Kibbutz kiểu tuổi trẻ Do Thái” mà cả hai phía đang tham chiến đều dị ứng. Quê hương yêu dấu không có đất dung thân cho một tiến trình bứt phá vươn lên thì phải ra đi theo bước đạo hành của tiền nhân đi trước : Nhất bát thiên gia phạn- Cô thân vạn lý du (Bát cơm nghìn nhà hiến - Một mình đi muôn phương) và Thầy đã rời xa quê hương Việt Nam từ năm 1961, tới Mỹ và 18 xứ khác để kêu gọi hòa bình. Lời nguyện hòa bình của một tu sĩ Phật giáo trong chiến tranh cũng như đặt hoa sen trong biển lửa; nhưng dẫu cho đốm lửa nhỏ bị khước từ hay lụi tàn vẫn còn hơn đồng lõa với bóng tối đêm đen.    

 

            Vào những năm đầu 1970, thế giới phương Tây vẫn còn xa lạ với Phật giáo. Đạo Phật được truyền vào Âu Mỹ như một triết lý chứ chưa hẳn là một tôn giáo. Riêng Phật giáo Việt Nam thì đến năm 1962 mới có Thầy Thích Nhất Hạnh theo học ở đại học Princeton, ngành Tôn Giáo Tỷ Giảo (Comparative Religion) và đến năm 1966, Thầy là giảng viên ở đại học Cornell. Đây cũng là năm Thầy Thích Thiên Ân dạy tại Đại học UCLA và truyền bá đạo Phật. Đồng thời, có Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát và Thích Thuyền Ấn học Triết học ở Đại học Wisconsin. Từ năm 1975, cùng với đoàn người Việt di dân - tỵ nạn ở Mỹ cùng khắp năm châu, đạo Phật Việt Nam từng bước có mặt khắp nơi với sự xây dựng chùa viện và phát triển đạo tràng tu học. Trong số mười vị tu sĩ Phật giáo thế giới được xem là có ảnh hưởng trực tiếp lớn nhất đối với sự phát triển đạo Phật tại phương Tây trong vòng 50 năm qua đặc biệt là trong môi trường trí thức và thế hệ trẻ, Thiền sư Nhất Hạnh được xem là người có ảnh hưởng lớn thứ hai sau đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng. Riêng với cộng đồng Phật giáo người Mỹ và tuổi trẻ hiếu kỳ với tôn giáo (nói chung) thì với hơn 50 quyển sách bằng tiếng Anh được viết ra hoặc dịch lại của Thầy cũng tạm đủ thay Thầy nói lên điều muốn nói về đạo Phật và quan điểm của một tu sĩ Phật giáo “nương theo lối xưa bằng bước chân khai phóng”.  Đạo Phật Ứng Dụng (Applied Buddhism) là bước tiếp nối của Đạo Phật Dấn Thân.  Đạo tràng Làng Mai với đường tu Tiếp Hiện là sự thể hiện tinh thần dấn thân và ứng dụng đạo Phật vào hiện thực cuộc đời. Đó là một đạo Phật hiện tiền sinh động cho người đang sống và cho thế hệ đàn em tương lai để xây dựng một Niết Bàn Tại Thế, mở then gài cửa ngõ tự do đi vào đường Đạo: Nơi có cả hạnh phúc trong tầm tay và thế giới Cực Lạc cho cả đời nầy và lẫn kiếp lai sinh.

 

            Ngày nay, tới những thành phố lớn trên thế giới, ghé vào thư viện hay những nhà sách lớn, tìm đến quầy sách chuyên đề tôn giáo, triết học… xuất bản bằng những ngôn ngữ thông dụng hàng đầu như Anh, Pháp, Hoa, Tây Ban Nha… người tìm sách sẽ ngỡ ngàng vì số lượng sách quá nhiều của một tác giả Việt Nam: Thích Nhất Hạnh. Số lượng sách cùng hạng mục của một tác giả nổi tiếng hàng đầu như Đạt Lai Lạt Ma cũng chỉ bằng một phần ba Thích Nhất Hạnh. Vài ba hôm nay, chưa có tin qua đời của một danh nhân, nghệ sĩ nào lại được thông tin ồ ạt và rộng rãi trên môi trường truyền thông đại chúng toàn thế giới như tin Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch. Đặc biệt nhất là thế hệ trẻ nói chung và thế hệ thứ ba con em người Việt Nam ở nước ngoài phải lấy tiếng bản địa thay cho tiếng Việt mẹ đẻ nói riêng, đã thể hiện nhiệt tình và tâm cảm của lòng biết ơn, sự luyến tiếc và niềm xúc động sâu xa để thông báo cho nhau về tin Thầy Nhất Hạnh qua đời. Thích Nhất Hạnh trong tâm hồn tuổi trẻ là hình ảnh tiếng chuông thanh và nụ cười thiền tập, là giá trị quý báu của sự sống trong giây phút hiện tại, là cách hóa giải niềm đau nỗi khổ bằng phương pháp tự chuyển hóa tâm mình, là lấy mắt thương nhìn cuộc đời để biến thù hận thành thương yêu, là hạnh phúc thiện lành của người biết chia sẽ và đem cho hạnh phúc.

 

            Và, lắng lòng cung tiễn Thầy không với nụ cười, cũng chẳng qua tiếng khóc mà bằng Tâm Tang như một sự hoàn không rỗng lặng, tự tại như như… như Thầy đã nói khi còn tại thế: “Tôi đã đến Cực Lạc (Pure Land), một ngôi nhà thực sự, nơi tôi có thể… chạm vào thiên đường của tuổi thơ mình và tất cả những điều kỳ diệu của cuộc sống. Tôi không còn quan tâm đến hiện hữu và không tồn tại, đến và đi, sinh ra hay chết đi. Trong ngôi nhà đích thực của mình, tôi không sợ hãi, không lo lắng. Tôi có an lạc và giải thoát. Ngôi nhà thực sự của tôi là ở đây và bây giờ. Tôi đã tìm thấy hạnh phúc thực sự ”. - Thích Nhất Hạnh, Tôi Đã Đến, Tôi Đã Về (I Have Arrived, I am Home).

 

Sacramento, 22-1-2022

Trần Kiêm Đoàn [**]

 

 

  



[**] NHỮNG BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Cùng một tác giả (TKĐ) đã viết trong vòng 20 năm qua:

 

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh – Hành giả bắc nhịp cầu Đông Tây

https://www.trankiemdoan.net/butluan/tongiao-phatgiao/thiensuthichnhathanh.html

 

Hạt giống Làng Mai

https://www.trankiemdoan.net/butluan/tongiao-phatgiao/hatgionglangmai.html

 

Biển lửa giữa hoa sen

https://www.trankiemdoan.net/butluan/tongiao-phatgiao/bienluagiuahoasen.html

 

Đôi lời cùng bạn khác hướng

https://www.trankiemdoan.net/butluan/tongiao-phatgiao/doiloivoichienhuu.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6337)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 6955)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 7859)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 6813)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 11551)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 9314)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 14856)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 6618)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 14880)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 7668)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]