Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngày Xưa bên Thầy (bài viết của đệ tử Tịnh Huệ Tâm Vân kính dâng Sư Bà Đạt Hương)

17/01/202213:16(Xem: 2526)
Ngày Xưa bên Thầy (bài viết của đệ tử Tịnh Huệ Tâm Vân kính dâng Sư Bà Đạt Hương)
Su Ba Dat Huong (4)
NGÀY XƯA BÊN THẦY
 Kính dâng Giác Linh Sư Bà Đạt Hương

 



Sân chùa sứ nở hoa đài

Đông về lạnh lẽo ngày dài thiên thu

Sáng nay trời bỗng âm u

Nhân gian lắng đọng, tâm tư nghẹn ngào

Chân như Người đã bước vào

Trầm luân khép cửa, tiêu dao tháng ngày.

Sáng nay nơi xứ người con nhận tin của Sư Chị Tịnh Nguyên: “Tâm Vân ơi, Thầy đã đi rồi, buồn quá Sư muội ơi.” Mặc dù tâm trạng con rất tệ, con vẫn bình tĩnh hầu chuyện với Sư Chị Tịnh Huy và Sư Chị Tịnh Hân, mà nước mắt con cứ chảy không sao ngăn được, khắc khoải tràn ngập trong lòng. Thôi thì cứ để một chút phàm trần bên trong tự tuôn ra theo kiểu thường tình.

Bước vào những ngày đông, giữa tiết trời lạnh buốt, hạnh nguyện Người viên mãn, cõi hồng trần đã hết, Người mãn duyên nhẹ bước, chốn Niết Bàn thảnh thơi.

Nơi phương trời xa vạn dặm chúng con hướng vọng về An Tường Ni Tự miền thùy dương cát trắng.

Kính lạy Thầy! Chúng con vẫn hiểu các pháp từ duyên sinh, nhưng giây phút này lòng cứ nghèn nghẹn .

Tâm can vỡ vụn rơi từng mảnh
Tiễn biệt Thầy về chốn tịnh thanh
Cực Lạc Thầy đã về nhanh
Chúng con ở lại ảnh Thầy ghi tâm.


Chúng con lại chơi vơi, giữa Ta Bà cõi tạm, trĩu nặng dòng lệ rơi.

Để hình ảnh, tình thương và lòng từ ái của Người hiện rõ trong chúng con mỗi ngày càng thêm sâu sắc hơn.

Quả thật, vốn biết cuộc đời chỉ là sự biến chuyển không ngừng do các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã chi phối.Thế nhưng, chúng con lại quá đau lòng khi được tin Thầy mãi mãi rời xa chúng con.

Kinh Phật ngày đêm tụng đọc, chân lý Phật Đà người đã trao truyền. Thầy đã mượn thân tứ đại giả hợp làm thuyền từ, để đưa mình, độ người vượt bến mê trầm luân.



Con còn nhớ năm 2015 về thăm Thầy, lúc con quỳ lạy bái biệt Thầy, Thầy ôn hòa nhắn nhủ dạy con: “Tùy duyên mà hầu Tam Bảo nhưng làm gì cũng đừng quên câu niệm Phật nghe con, giữ vững tâm Bồ đề, đừng để lòng thoái chuyển”. Lời của Thầy cứ từng giọt sáng rót vào tâm tư con, làm cho con bịn rịn không muốn dời bước.

An Tường cảm niệm thâm tình đạo
Ấp ủ ân tình mối tương giao...
Đứng trước Phật đài con khấn nguyện
Thầy về Cực Lạc chốn tiêu dao.

Thầy ơi! dáng vẻ khoan thai, với lòng từ mẫn không chỉ riêng với chúng con mà với tất cả hàng xuất gia hay tại gia Thầy luôn lấy thân giáo làm bài học mỗi ngày cho chúng con tỏ ngộ.

Sự thảnh thơi chừng mực của Thầy được thể hiện bằng chính những thái độ nhẹ nhàng nhưng không kém phần nghiêm khắc, kèm theo nụ cười hiền của gốc người Hà Tĩnh.



Thầy luôn bao dung và dung dị thật hiếm có. Vào Thập niên 84 thời cuộc vô cùng khó khăn, Thầy đã nuôi lớn chúng con bằng tình thương và chăm lo cho chúng con từng bữa ăn, tuy đạm bạc nhưng có hương vị thương yêu, ngọt ngào của Thầy.

Con còn nhớ sáng hôm ấy Thầy bảo con lấy cái rổ, rồi theo Thầy ra vườn, Thầy hái trái khế chua và hướng dẫn con phải sắt và gọt như thế nào, nhưng con lại quá vụng về, con đã làm tay mình bị thương chảy máu, lúc đó Thầy đã làm cho con cảm động rưng rưng, Thầy đãvội hái vài lá cây gần đó băng lại vết thương cho con. Cuối cùng thì con ngồi đó, nhìn Thầy cắt từng quả khế chua kia, và con thỏ thẻ hỏi Thầy cắt khế để làm gì? Thầy mỉm cười nói: “Để cho các con ăn trừ cơm”. Thế là trưa hôm đó chúng con có món đồ kho bằng khế chua và món canh cũng là khế chua với vài loại rau, nhưng con thấy quá tuyệt vời, vì lần đầu tiên trong đời con được thưởng thức.



May thay cho con giữa chốn trầm luân, Thầy đã che chở cho con những ngày đầu xuất gia tu học. Thầy cứ như một bà tiên hiện ra mỗi ngày với chúng con, ngày ấy mỗi tháng chị em chúng con thay nhau làm thị giả cho Thầy, đến phiên con, mang tiếng thị giả chứ có làm được gì đâu, buổi trưa có dâng được cho Thầy khay cơm, tối thì ngủ như chết, khuya Thầy còn phải đánh thức con dậy đi công phu sáng, có những đêm khuya Thầy còn nhẹ nhàng kéo chăn đắp cho con nữa. Thầy đã để lại trong lòng con một hồi ức tốt đẹp, với bao niềm thương tiếc và hoài niệm.




ni su tam van va su phu dat huong
Đệ tử Tịnh Huệ Tâm Vân về đảnh lễ Sư Phụ Đạt Hương năm 2015







Kính bạch Thầy!


Chúng con cũng biết, Thầy đã nhẹ nhàng ra đi vào cõi tịnh, đã thuận theo một cách tự nhiên mà không cưỡng cầu. Chúng con biết, những tháng ngày còn lại không còn được nghe Thầy dạy bảo nhưng xin Thầy hãy yên lòng an nghỉ.

Hoa sứ nở rộ trước sân chùa Trăng sáng đã về, bản nguyện và tình thương của Thầy luôn hiện hữu trong mỗi chúng con, làm ánh đuốc sáng soi đường dẫn lối. Chúng con kính xin Thầy ở cõi Niết Bàn, luôn gia hộ và che chở cho đệ tử chúng con!



Vẫn biết rằng, dòng đời là cõi tạm, sanh ký tử quy, mọi sự vật trên thế gian này luân lưu như dòng nước chảy, và trong bất cứ cuộc chia ly nào, dù thể hiện không sao tỏ bày hết được, vẫn đượm một nỗi buồn vời vợi. Nơi cõi thênh thang, chắc chắn Thầy tự tại an nhiên. Kính xin Giác linh Thầy từ bi chứng giám lòng thành cảm niệm. Để rồi chúng con mãi mãi khi nghĩ nhớ về Thầy chỉ còn là phảng phất trong di ảnh.



Kính nguyện Giác linh Thầy chứng minh gia hộ cho đệ tử chúng con trên đường thực thi lý tưởng, phụng trì Chánh Pháp, ngõ hầu đền đáp bốn ân trong muôn một.

Kính nguyện Giác linh Thầy thùy từ chứng giám. Ngưỡng nguyện Giác Linh Thầy gia ân, yểm trợ cho chúng con vững chãi niềm tin trên bước tu học và phụng sự tha nhân.



Đệ tử chúng con Thành kính đảnh lễ bái biệt Thầy!

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Atlanta, Mỹ quốc, ngày 16/01/2022

Đệ tử Tâm Vân - Hiệu Tịnh Huệ



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6624)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6920)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 915)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33900)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4723)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4673)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4624)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4588)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4914)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4629)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567