Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ Phổ Đà Xưa (thành kính tưởng niệm Sư Bà Như Tuấn, Khai Sơn Phổ Đà Ni Tự, nơi có nhiều kỷ niệm học làm nông)

17/12/202117:58(Xem: 2768)
Nhớ Phổ Đà Xưa (thành kính tưởng niệm Sư Bà Như Tuấn, Khai Sơn Phổ Đà Ni Tự, nơi có nhiều kỷ niệm học làm nông)


Su ba Nhu Tuan-1
NHỚ PHỔ ĐÀ XƯA
 

THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM SƯ BÀ THƯỢNG NHƯ HẠ TUẤN,

KHAI SƠN PHỔ ĐÀ NI TỰ- NƠI CÓ NHIỀU KỸ NIỆM HỌC LÀM NÔNG

 

            Mùa hè 1975, sau khi cọng sản chiếm lấy miền Nam Việt Nam, tất cả trường Cao Cấp, Trung Cấp, và Sơ Cấp Phật học đều nghỉ học.  Tăng Ni phải lao động để góp phần xây dựng đất nước trong buổi giao thời.  Chúng con, ni chúng trường Trung Cấp Phật Học Từ Nghiêm, ở đường Bà Hạt, Quận 10, lao động chân tay với nhiều nghành nghề như đan rỗ tre, chằm nón lá, đơm nút áo, và luân phiên làm rẫy.   Lao động chân tay để nhà nước cọng sản khỏi nói, “Tu sĩ ngồi mát ăn bát vàng,”  chứ thực ra làm không đủ sống. 

 

            Giữa năm 1976, chúng con được gọi đi Bình Tuy làm rẫy.  Chúng con nghe rằng, Ni Sư Diệu Tuấn cúng đất và chùa Phổ Đà cho chùa Từ Nghiêm để Ni chúng có cơ sở làm kinh tế tự túc.  Chúng con luân phiên, mỗi nhóm năm người đi làm rẫy, con phát tâm đi nhóm đầu tiên. Lúc ấy xe cộ hiếm hoi, mua được vé xe đi Bình Tuy cũng như xin được Visa đi Mỹ bây giờ.  Chúng con đi từ 6 giờ sáng, xe chạy tới trưa mới đến ngã ba Bình Tuy.  Từ ngã ba, xách bao bị đi bộ đến chùa hơn nửa tiếng. 

 

            Đến chùa Phổ Đà, Ngôi nhà tranh lợp bằng lá dừa nước, vách bằng tre đan, kết thêm lá dừa cho đỡ nóng.  Chính giữa ngôi nhà, Tôn Tượng Đức Bổn Sư được tôn trí trên bục gỗ cao hơn một thước, không sơn phết, nhìn vào thấy thô sơ, mộc mạc nhưng vô cùng thanh thoát.  Chỉ một bàn thờ Phật thôi.  Bên phải là tư thất của Sư Bà, bên trái là dãy bàn để dùng cơm.  Chư Ni chúng con nghỉ sau lưng tôn tượng Đức Phật. 

 

            Sư bà mua đất rẫy từ hồi nào chúng con không thưa hỏi, nhưng đến nơi đã thấy sư bà trồng khoai mì, khoai lang, đậu phụng, và các thứ rau củ quả.  Sư Bà vui vẻ đón tiếp chúng con, kể chuyện khai đất lập chùa vô cùng gian khổ.  Thân nữ nhi yếu đuối, một thân một mình, lái xe cày xới đất, làm vồng trồng khoai.  Sư bà đào một giếng nước trong vườn chùa để xử dụng ăn uống.  Dù đất rẫy, nhưng tiện nghi tối thiểu cho đời sống hàng ngày cũng tạm ổn.  Sư bà ở với chúng con một tuần, chỉ dẫn đất chùa bao nhiêu, từ đâu đến đâu, bao nhiêu mảnh đất đã trồng trọt,  còn lại những mảnh chưa làm, chúng con tiếp tục khai khẩn đất hoang.     

 

            Trong một tuần sống chung với Sư Bà, mỗi ngày Sư Bà dậy sớm lúc 3 giờ sáng, tụng kinh Lăng Nghiêm, chúng con chưa quen đời sống ruộng vườn, nhưng phải dậy sớm tụng kinh với Sư Bà.  Sư Bà dạy rằng, đất rẫy không cây cối, 10 giờ sáng nóng như giữa trưa, nên mấy huynh đệ cố gắng dậy sớm tụng kinh, tụng xong điểm tâm (cơm với rau luộc), rồi vác cuốc ra đồng. 

 

            Con rất khâm phục khi thấy phụ nữ lái xe.  Điểm tâm xong, Sư Bà lái xe cày xới đất , con vô cùng ngưỡng mộ, chiếc xe cày cồng kềnh, nhưng một phụ nữ lái cày chẳng thua gì các cậu thanh niên.   Sư bà xới đất trước,  chúng con theo sau lượm những chùm rễ cỏ cứng như rễ tre.  Làm tới 10 giờ sáng, chúng con vào nhà nghỉ ngơi và dùng trưa.  

            Sau một tuần chỉ dẫn chúng con làm rẫy trồng khoai, Sư Bà đi Sài Gòn.  Thỉnh thoảng Sư Bà về Phổ Đà nghỉ ngơi và thăm viếng chúng con.   Mỗi lần Sư Bà trở lại Phổ Đà, chúng con được ăn tàu hủ, bánh ướt, bánh mì vì ở rẫy xa xôi, chúng con không có khả năng để mua các thức ăn đặc biệt đó.   Sau hai lần Sư Bà ghé thăm, một hôm chúng con được tin Sư Bà đã đến bến bờ tự do. 


Su ba nhu tuan-10
Tác giả (Thích Nữ Giới Châu, bìa trái) chụp hình lưu niệm với Sư Bà Như Tuấn cùng chư Tôn Đức Ni
tại Đại lễ Hiêp Kỵ Về Nguồn 2018 tại chùa Khánh Anh, Pháp Quốc




 

            Mãi đến năm 2018, trong dịp lễ Về Nguồn tại chùa Khánh Anh, Pháp Quốc, Con gặp lại Sư Bà, lần này Sư Bà yếu nhưng rất minh mẫn.  Con nhắc lại chuyện làm rẫy ở chùa Phổ Đà, Bình Tuy.  Sư Bà dạy, “Bây giờ có thầy trú trì, làm chùa lớn đẹp lắm.”  Sư Bà không nói nhiều, nhưng con cảm nhận được niềm vui trong đôi mắt tràn đầy hoan hỷ khi ngôi chùa Sư Bà khởi công xây dựng nay đã được trùng tu trang nghiêm thanh tịnh. 

 

            Nam Mô Ni Trưởng thượng Như hạ Tuấn Hoà Thượng Ni Giác Linh

 

            Con thành Kính Đảnh Lễ

            Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Giới Châu 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6431)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9512)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4488)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4334)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6355)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5167)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7656)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6057)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12778)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567