Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dáng tùng vững chãi giữa tuyết sương

22/10/202106:56(Xem: 1727)
Dáng tùng vững chãi giữa tuyết sương


ht pho tue-4
Dáng tùng
vững chãi giữa tuyết sương

Người viết tìm đến tổ đình Giáng (dân gian quen gọi là chùa Ráng, tên chữ Viên Minh tự) vào một ngày cuối năm 2015. Trong quá trình viết báo về đề tài Phật giáo, người viết có cơ duyên được gặp và thỉnh giáo với một số chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo nước nhà, nhưng đây là lần đầu tiên đi thỉnh vấn Đức Pháp chủ, bậc chân tu nếu tính theo âm lịch thì năm nay tròn 100 tuổi. Ngài không dùng điện thoại, nên người viết không biết làm cách nào liên lạc, để bạch xin hẹn trước.

Từ Hà Nội xuôi Quốc lộ 1A về phía Nam chừng 35 cây số là đến thị trấn Phú Xuyên. Hỏi đường đến chùa “Ráng”, người dân nói rẽ phải đi qua cây đa Giời ơi chừng 7km là tới. Quả nhiên, trên đường sừng sững cây đa di sản mấy trăm năm tuổi, với muôn trùng rễ thụ chọc thẳng xuống đất. Sở dĩ có tên Giời ơi, là vì xưa kia suốt con đường đất dài heo hút không có nhà cửa, ai đi qua cũng đều bị cướp và chỉ biết kêu than “Giời ơi” dưới gốc đa. Đi đến tận bờ đê sông Hồng, mới thấy chùa Giáng hiện lên một mình giữa cánh đồng lúa rộng mênh mông trơ gốc rạ. Cảm giác ngỡ ngàng thoắt hiện, bởi chưa đến người viết cứ hình dung bậc Hòa thượng ở ngôi cao nhất của Giáo hội thì sẽ trụ trì ngôi chùa hoành tráng, có thể nhìn thấy từ rất xa hàng cây số. Nào ngờ tổ đình Giáng lại giản dị và khiêm nhường đến vậy. Một ngôi cổ tự với mái ngói cong cong xếp chồng lên nhau, trông xa xa như một đóa sen giữa xanh ngắt một vùng bờ bãi. Bước qua cổng chùa, được đi giữa khu vườn rộng miên man những hàng khoai tây thẳng tắp, những luống cải bẹ, rau muống, su hào đang bén lá xanh non... gợi cho người viết hình ảnh đầu tiên về cuộc sống thanh bạch của bậc chân tu. Không gian vắng vẻ đến lạ thường. Trừ Bảo điện, Tổ đường, Bảo tháp là uy nghi nhờ mới được trùng tu, còn lại từ nhà khách, khu Tăng xá, bếp ăn, trai đường, lối đi vẫn chỉ là những mái nhà đơn sơ như cảnh chợ quê Bắc Bộ mấy mươi năm trước.

Tìm gặp chư Tăng, được biết Đức Pháp chủ đang tọa thiền trong cốc bát giác phía sau chùa. Hàng ngày, ngài đều tụng kinh Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà nhiều giờ đồng hồ liền không đứng dậy, có hôm ngồi suốt ngày đêm niệm Phật. Mỗi lần như vậy, Tăng chúng ở chùa không dám phiền động đến ngài, khách đến thăm cũng không dám bạch báo.

Chờ suốt cả buổi sáng, không thấy Đức Pháp chủ ra khỏi cốc, biết là chưa đủ duyên để được gặp ngài, người viết đành chào chư Tăng để ra về. Đại đức Thích Nguyên Quang, một trong những đệ tử của ngài, khuyên: “Hôm khác cứ đến, nếu có duyên thì sẽ gặp được thôi!”. Đi xa hàng chục cây số trong mưa rét, mà không được gặp Đức Pháp chủ, đành tự nhủ có lẽ chư Phật, chư Tổ thử thách sự kiên nhẫn của mình đây.

Vài ngày sau người viết trở lại chùa, lần này may mắn được diện kiến Đức Pháp chủ. Phải hôm trời rét đậm, gió bấc hun hút, Hòa thượng khoác chiếc áo dạ cũ không che hết được chiếc áo nâu sồng giản dị bên trong. Trông vị sư già như một lão nông. Trong dáng khô gầy, khắc khổ của một lão Tăng đã ở tuổi bách niên, nhưng đôi mắt vẫn lộ rõ vẻ tinh anh và nụ cười hiền hậu, thanh thoát, bước đi nhàn nhã khoan thai, một phong thái mà không dễ ai, ngót trăm tuổi còn giữ được. Thỉnh vấn Đức Pháp chủ, ngài trả lời rành rọt, khúc chiết từng câu, thể hiện sự minh mẫn như một người trung niên, càng làm người viết ngỡ ngàng trước trí tuệ lớn lao của một bậc cao tăng thạc đức. Nói câu nào, Đức Pháp chủ cũng cười rất tươi. Từ gương mặt đến giọng nói đều toát lên một vẻ từ bi, hỷ xả.

Ngài sinh năm 1917 tại xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm 1926 xuất gia tại chùa Quán (Ninh Bình). Năm 1932 thọ giới Sa-di tại trường hạ chùa Đông Cao, tỉnh Nam Định. Năm 1934 bắt đầu tu học tại chùa Viên Minh, tỉnh Hà Tây. Năm 1937 thọ giới Tỳ-kheo do ngài Thích Quảng Tốn làm Hòa thượng đầu đàn. Từ năm 1953 đến 1958 tu học và hoằng pháp tại chùa Kim Đới - Hải Phòng. Từ tháng 10-1958 đến nay trụ trì chùa Viên Minh...

Ngài kể chuyện xuất gia từ khi mới 5 tuổi, trên đường tu học, dấu chân của ngài đã trải khắp các tổ đình vùng châu thổ sông Hồng. Trải qua những ngày quê hương bị giặc Pháp chiếm đóng, làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ, ngài vẫn một lòng son sắt với cửa Phật. Người viết càng ngạc nhiên hơn, khi Hòa thượng cho biết ngài chưa từng học qua một trường lớp chính quy nào. Tất thảy vốn kiến thức có được đều nhờ kiên trì tự học. Hẳn ai cũng biết, ngài là vị giáo phẩm nổi tiếng uyên thâm về Phật học và Hán học.

Ảnh tác giả

“Tôi ngẫm thấy, “Tre già thì măng mọc”, nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng mới đẹp mới có ích cho Đạo cho Đời.

Theo tôi, nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng Ni, nhất là mô hình các tổ đình truyền thống. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò nhất thống của Quốc gia và Giáo hội. Thống nhất nên trên cơ sở sự đa dạng.

Với Phật giáo thì hòa hợp Tăng là quan trọng nhất. Các ràng buộc hành chính, mệnh lệnh ngoài giáo pháp chỉ là nhất thời mà thôi. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hòa” của Tăng, Ni chúng”.

Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ



Sự nghiệp phiên dịch kinh sách, trước tác của ngài nổi bật với các tác phẩm: Kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Bát-nhã dư âm, Đại từ điển Phật học, Đề cương kinh Pháp hoa, Phật học là tuệ học, biên tập Đại tạng kinh VN, phiên dịch và hiệu đính Luật Tứ phần… Ngài từng là Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây; từng kinh qua Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học VN tại Hà Nội, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Từ tháng 12-2007 đến nay: đảm trách ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Đến nay đã 80 năm ngài an trụ ở chùa Giáng nên được Phật tử mọi miền gọi là Tổ Giáng. Trong mắt người dân vùng này, Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ không chỉ là một vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức hạnh vẹn toàn mà còn là một nông dân thực thụ với đức tính hay lam hay làm, cần cù và giản dị. Bởi vì suốt cuộc đời, ngoài giờ hành lễ hay đi hoằng pháp, Hòa thượng luôn cùng môn đệ xắn tay cày cấy nuôi thân, đến 80 tuổi mới thôi. Nay ở tuổi bách niên, ngài không còn ra đồng trồng lúa được nữa, nhưng hàng ngày vẫn làm vườn, dọn dẹp trong chùa.

Từ biệt Trưởng lão Hòa thượng, người viết nhìn theo dáng ngài bước đi khoan thai trên nền gạch đỏ, trong tấm khoác giản dị, giữa trời gió bấc. Gió lạnh đến thấu xương, khiến những tán cây cũng run lên bần bật, mà dáng của cụ vững chãi đến lạ lùng, như cây tùng cây bách thường trụ giữa tuyết sương mưa gió. Chợt nghĩ, không biết trên thế giới này có vị Pháp chủ nào lại giản dị mà uyên bác đến thế không. Điều đọng lại trong lòng mỗi người đến đây là sự cảm phục và tôn kính sâu sắc đối với Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ - Đệ tam Pháp chủ GHPGVN, người 100 tuổi đời, vẫn ngày đêm mang giáo lý nhà Phật, đức hạnh cao dày của bậc chân tu giáo hóa chúng sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13527)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7696)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18598)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5272)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7310)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4370)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17200)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8193)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4667)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5438)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567