Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chấp Đối Dâng Đảnh, Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) | quangduc.com

22/10/202104:53(Xem: 3606)
Chấp Đối Dâng Đảnh, Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) | quangduc.com
ht pho tue (6)


Chấp Đối Dâng Đảnh..!

       Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ.
       Đệ Tử Chúng Con, Tk: Minh Thế vọng Bái Giác Linh Đức Trưởng Lão Đệ Tam Pháp Chủ: Cung duy Vọng đối dâng đảnh:
         Chữ Hán:
                  “普 願 群 迷, 開 心 佛 學, 供 維 桅 第 三 法 主, 祖 祖 將 傳,  戒 律 行 密 印 指 花 藏 松 林.
                    慧 覺 恩 師, 圓 明 繼 位, 稱 尊桅 壇 主 和 尚, 處處 清 歸, 脈 法 禪 家 敕 行 清 貧 農 增.”

     
 Âm:

       “Phổ Nguyện Quần Mê, Khai Tâm Phật Học,Cung Duy Ngôi Đệ Tam Pháp Chủ, Tổ Tổ Tương Truyền, Giới Luật Hạnh Mật Ấn Chỉ Hoa Tạng Tùng Lâm.
       Tuệ Giác Ân Sư, Viên Minh Kế Vị, Xưng Tôn Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Xứ Xứ Thanh Quy, Mạch Pháp Thiền Gia Sắc Hạnh Thanh Bần Nông Tăng….”
         
Dịch:

         “Phổ Nguyện Muôn Loài, Phật Học Rạng Ngời Sáng Chói Khắp Nơi, Đại Tăng Cung Duy Lên Ngôi Pháp Chủ Đức Đệ Tam, Tổ Tổ Truyền thừa,  Ngài Luôn Trì Giới Luật, Để Ấn Pháp Hoa Tạng Bửa Khắp Các Chốn Thiền Môn.
          Tuệ Giác Bậc Thầy, Tiếp Nối Thừa Hành Kế Vị Trú Trì, Ngài Diễn Thông Trì Luật Lên Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Nơi Nơi Quay Về, Ngài Học Từ Pháp Mạch, Trong Thanh Thiết Chân Chất Một Vị Lão Tăng Nông Thiền….”
       
Phúc Duyên Cung Đối:

        Hàng hậu học chúng con, Tk Thích Minh Thế, được nhân duyên 10 năm liên tiếp hầu cận học tập mỗi khi Xuân về, chúng con lắng nghe pháp âm của Đức Tổ Sư Đệ Tam Pháp Chủ, trao cho chúng con, những lúc hạnh phúc nhất chính là bình an bên Đức Tổ Sư nhiều nhất.
       
Chúng con nhớ Đức Tổ có dạy rằng:

      "Suốt đời Thầy chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Thầy tự thấy mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội...Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ...Chùa to cảnh lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện, nên không quan trọng trong việc quyết định thành tựu của người tu..."
       
Rồi Đức Tổ bảo tiếp:

        "Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, ngài Pháp Loa có 47 năm mà sự nghiệp thì bất khả tư nghì."
       
Chúng con bạch:

        “Bạch Đức Tổ, Một đời Huân Tu nên suy ngẫm điều gì..? “
         
Đức Tổ đáp:

         "Tu là gì?  Con biết không Minh Thế, Tu là sửa chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người..Tôi cũng luôn dạy các đệ tử không được lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, mà phải tự mình vừa cày cấy làm ăn, vừa truyền bá giáo lý đạo Phật đem lại lợi lạc cho đời.."
         
Kế đến Đức Tổ dạy cho pháp lục hoà:

        "Đạo nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu; lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi ích thì chia cân nhau không ai tranh tham phần hơn cho mình...Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy."
         
Và rồi, Đức Tổ dạy cho pháp học về cách nhìn tuổi thọ, Đức Tổ chỉ bảo vào bình hoa và vấn thị:

         "Muốn sống lâu trước hết phải sạch sẽ từ thân đến tâm... Về tinh thần, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống trong tinh thần lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. ..Nhưng dù sao, cũng không thể loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp nhân sinh..."
         
Chúng con biết, cách sống của Đức Tổ như viên Ngọc minh châu trong chéo áo Như Lai, ở Pháp hoa kinh, khi trong sáng như Nông thiền.

        Vào nhân duyên ấy, là mùa Xuân 2010, chúng con được sự chỉ dạy sâu lắng lúc Đức Tổ tuồi ngoài 94.
        Vậy là, hôm nay chúng con mất đi pháp âm, vị Bồ Tát hiện thân Hoa Tạng giới, cõi Tỳ Lô.
       Chúng con biết rằng: Sanh Tử Như Tổ Gọi Phật Rước Tổ Về Chốn Thiền Gia Liên Đài.
       
Nhớ lời Đức Tổ trao thi kệ:

        “ Minh Hành Gia Tâm Hỷ.
          Thế Phú Thọ Khắc Kinh.
          Không Thành Sắc Bạch Tuệ.
          Ứng Giới Pháp Uy Linh”

ht pho tue (1)ht pho tue (2)ht pho tue (3)ht pho tue (4)ht pho tue (5)



Và đây cũng là thi kệ tu học, trong suốt quá trình Vân du, đồng thời Năm 2016, chúng con về chốn Tổ Viên Minh, cung thỉnh Đức Tổ vào ngôi vị chứng minh Pháp bảo khắc kinh: Lăng Nghiêm, Pháp Cú, và các mộc bản do con Minh Thế trì nguyện để khắc.

         
Đức Tổ đã tác chứng cho chúng con.

Hôm nay, chúng con vọng về giác linh đài nơi chốn Tổ Viên Minh- Phú Xuyên- Hà Nội. Lưu nhục thân Đức Tổ.
         
Chúng con cung kính Bạch Vọng.

Nam Mô Diệu Kính Bảo Tháp ma ha tỷ khiêu Bồ tát giới pháp danh  Thích Phổ Tuệ đạo hiệu Phổ Thông thiền gia pháp chủ đại lão hòa thượng Nhục Thân Bồ Tát  thiền tọa hạ.

Thành Tâm Cung Kính Khể Thủ Lễ.

                 Tk: Thích Minh Thế
                 Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.
                 Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang
                 Ngày 21-10-2021
                 Ngày Âm Lịch: 16-09-Tân Sửu.
Viết tại Thiền Thất Phổ Tịnh- Hà nội, nhân mùa  Thu xứ Hà Nội Cố Hương,  giữa mùa bệnh viên phổi COVID-19. Từ nơi xa ấy vọng về tâm hương…!





ht pho tue

Tiểu sử Đức Pháp chủ GHPGVN
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021)



1. Thân thế

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh Bùi Văn Quý, sinh ngày 12-4-1917 tại thôn 5, xã Phùng Thiện, tổng Bồng Hải, nay là thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thân phụ là cụ ông Bùi Quang Oánh, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thinh. Song thân của ngài đều là những Phật tử thuần thành. Ngài là người con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em.



2. Hành trạng - Xuất gia tu học

Vốn được sinh ra trong gia đình có truyền thống thâm tín Phật pháp, cho nên hạt giống bồ-đề của ngài sớm nảy nở, lên 9 tuổi (tức năm 1925), ngài được song thân cho đến chùa ở với Sư cụ Thích Đàm Cơ, trụ trì chùa Phúc Long, thôn Phú An, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và được Sư cụ cho theo học chữ Nho với cụ đồ Hiệng nổi tiếng trong vùng.

Năm ngài 13 tuổi (tức năm 1929) Đại lão Hòa thượng được Sư cụ cho đến làm đệ tử Sư tổ Thích Nguyên An, trụ trì chốn tổ Vọng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Trải qua 3 năm tu học, đến năm 16 tuổi (tức năm 1932), ngài được Sư tổ Vọng cho thụ giới Sa-di tại Giới đàn hạ trường chùa Đống Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.



Năm 18 tuổi (tức năm 1934), Đại lão Hòa thượng đến sam học và y chỉ vào Sư tổ Thích Quảng Tốn, trụ trì tổ đình Viên Minh, thôn Khai Thái, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Khi vừa tròn 20 tuổi (tức năm 1936), Ngài được thụ Cụ túc giới và Bồ-tát giới tại Đại giới đàn tổ đình Viên Minh, do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng.

Sau khi đầy đủ giới pháp, ngài bắt đầu quá trình sam phương cầu đạo. Ngài đến sam học ở hầu hết các sơn môn, tổ đình lớn thời bấy giờ như sơn môn Tế Xuyên, sơn môn Hương Tích, tổ đình Vĩnh Nghiêm...

Tiểu sử Đức Pháp chủ GHPGVN - Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) ảnh 2

Đại lão Hòa thượng trong lễ cầu nguyện tại chùa Quán Sứ, Hà Nội


- Hoạt động Phật sự:

Từ năm 1952 Ngài vẫn du hành đạo tại chùa Linh Ứng, thôn Kim Đới I, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Đến năm 1957, ngài lại trở về hầu thầy phụng Phật tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.

Năm 1961, Sư tổ Thích Quảng Tốn trụ trì đời thứ hai tổ đình Viên Minh viên tịch, ngài được kế đăng làm trụ trì đời thứ ba tổ đình Viên Minh từ đó cho đến nay.

Đến năm 1987, Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử ba vị cao Tăng là cố Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu và cố Hòa thượng Thích Tâm Thông về tổ đình Viên Minh mời ngài lên Hà Nội chủ trì hiệu đính Đại tạng kinh Việt Nam và tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội. Từ đó, ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội qua các thời kỳ như sau:

- 1993 - 2008: Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Hà Tây.

- 1993 - 2008: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây.

- 1992 - 1997: Hội đồng Trị sự GHPGVN.

- 1997 - 2007: Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Phó Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.

- 2002 - 2007: Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

- 2003 - 2007: Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội.

- 2003 - 2007: Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

- 2007 - nay: Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

- 2009 - nay: Đường chủ các hạ trường tại các tỉnh, thành phố.

- 2009 - nay: Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới Đàn tại các tỉnh, thành phố.

Bên cạnh việc đảm nhiệm các chức vụ Giáo hội, ngài cũng có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, từ phong trào bình dân học vụ đến phong trào xây dựng hợp tác xã sau khi hoà bình lặp lại. Cùng với việc chăm lo chùa cảnh góp phần xây dựng quê hương, ngài là bậc chân tu, luôn giữ tình đoàn kết các tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngài tham gia làm Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQVN nhiều khoá, từ khoá 4 đến khoá 9 hiện nay.


- Tác phẩm dịch thuật và trước tác

Ngài là bậc cao Tăng thông tuệ am hiểu Tam tạng thánh giáo. Đặc biệt, ngài có nhiều đóng góp quan trọng trong việc biên soạn, dịch thuật và trước tác các tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ngài dành cả cuộc đời cho sự nghiệp biên soạn, chú giải Đại Từ điển Phật học. Chú giảng và thuyết giảng kinh Lăng Nghiệm Đề cương kinh Pháp Hoa, kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Phật học là tuệ học, kinh Di Đà Viên Trung sao, Bát Nhã Dư âm. Các bộ Luật Tỷ-khiêu, Luật Tỷ-khiêu-ni lược ký.

Ngoài những tác phẩm biên soạn, dịch thuật và trước tác về Phật học nêu trên, ngài cũng sáng tác nhiều bài thơ Đường luật, theo thể thất ngôn bát cú để sách tiến hàng hậu học trong các khoá an cư kết hạ.

- Ghi nhận công đức

Trong suốt cuộc đời hành đạo tại tổ đình Viên Minh, cũng như quá trình tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội và xã hội, Đại lão Hòa thượng đã có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc. Công đức ấy luôn được Giáo hội và Nhà nước trân trọng ghi nhận, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương đại đoàn kết dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Uỷ ban Trung ương MTTQVN và nhiều Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.


3. Thời kỳ viên tịch

Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi sa-bà, với 85 hạ lạp, trên ngôi vị Pháp chủ GHPGVN, ngài đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh. Công đức của ngài đã góp phần to lớn vào sự nghiệp làm sáng danh đạo Phật và dân tộc Việt Nam. Cuộc đời ngài từ sơ tâm xuất gia cho đến lúc hoá duyên đã mãn luôn luôn là tấm gương chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia và tại gia. Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiệm làm thân giáo để răn dạy, sách tấn hàng hậu học. Cuộc đời ngài là biểu tượng tinh thần Bi - Trí - Dũng.

Đặc biệt trong công hạnh vô ngã vị tha, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chính pháp, phục vụ nhân sinh, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh.

Thời khắc thiêng liêng tương hội, công đức hóa duyên viên mãn, Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ GHPGVN đã thâu thần thị tịch vào hồi 3 giờ 20 phút ngày 21-10-2021 (nhằm ngày 16-9-Tân Sửu) tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Ngài ra đi để lại trong lòng môn đồ tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn, kính tiếc vô cùng. Ngài ra đi nhưng cuộc đời đức hạnh của ngài mãi mãi hằng hữu trong trang sử huy hoàng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Nam-mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội Hội đồng Chứng minh Đức Pháp chủ Ma-ha sa-môn Tỷ-khiêu - Bồ-tát giới Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ Đại lão Hòa thượng Giác linh thiền tọa hạ.




facebook

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4206)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4830)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5599)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3825)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5251)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5326)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12965)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11534)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5506)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567