Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cõi tạm (Kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

30/09/202118:38(Xem: 4517)
Cõi tạm (Kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

Chua Bao Quang 30 nam (34)
 

Cõi tạm
(Kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

Bài viết: HT. Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Trí Tường Dinh

 

Trước khi cha mẹ sinh ta ra, ta chẳng biết mình là ai và từ đâu đến; nhưng ta biết chắc chắn một điều rằng: Khi ta đã được đầu thai làm người chính là một phước báu không nhỏ đối với các cõi trong Dục giới. Bởi lẽ khi làm người chúng ta dễ tu hơn là chư Thiên ở các cõi Sắc. Vì những cõi nầy có tuổi thọ dài lâu và nhận nhiều phước báu hơn ở cõi người nên dễ mấy ai bỏ được niềm hỷ lạc ở những cõi tiên ấy. Nếu chẳng may sa vào ba cõi ở dưới là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì lại càng khó tu hơn nữa. Vì những nơi đó không có ánh sáng trí tuệ được soi rọi đến nên chúng ta vẫn mãi phải chịu vô minh sanh tử trong nhiều đời làm thú, chẳng biết bao giờ mới được làm người. Do vậy làm người được trong kiếp nầy là một phước báu không nhỏ.

Cũng có người đến rồi đi ngay khi còn trong bào thai của Mẹ. Cũng có nhiều người sinh ra tứ chi không đầy đủ, hay đui mù, câm, điếc v.v… Tất cả đều do những nhân mà đời trước họ đã tạo ra và hiện đời chỉ là những gì chúng ta gặt hái được mà thôi. Cha mẹ không thể gánh thế nghiệp của con cái được, mà giữa cha mẹ, con cái chỉ là nhân duyên hội tụ trong một thời gian dài ngắn khác nhau để trả nợ hay đền ơn đáp nghĩa cho nhau mà thôi. Cho nên gọi đây là cõi tạm. Sở dĩ gọi như thế bởi vì nó không chắc chắn. Do vậy Đức Phật dạy rằng: “Ba cõi không yên, như trong nhà lửa”. Chúng ta đang sống trong nhà lửa của ba cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô sắc Giới, mà những cõi nầy nào có an vui! Thế mà có khi chúng ta lại cho rằng những cõi ấy có thật. Tuy nó có đó nhưng chỉ trong thoáng chốc, trong từng sát na nó đã bị thay đổi bởi vô thường và do sự giả hợp của đất, nước, gió, lửa tạo thành. Rồi khi bốn yếu tố ấy không còn gắn liền được với nhau nữa thì chúng ta, con người cũng như vạn vật đều bị lôi cuốn theo. Bởi thế, tuy rằng thấy như thật đấy; nhưng đó chỉ là giả tướng, nếu chúng ta dùng tuệ giác để nhìn thấu qua, để khám nghiệm cuộc đời nầy.

Lâu nay chúng ta vẫn cho rằng cái nầy thuộc về ta, người nầy là của ta, của cải nầy là của ta v.v… nhưng trên thực tế khi hai tay buông xuôi rồi thì chẳng có cái gì là của mình cả và cũng chẳng có cái gì thuộc về mình. Ngoại trừ cái NGHIỆP nó đeo đuổi theo ta hoài không dừng nghỉ. Đây là một sự thật mà có rất ít người nhận chân ra được. Nếu ai rõ được điều nầy, người ấy sẽ rõ biết giáo lý của Đạo Phật là một giáo lý chân thật, dạy cho con người nhận chân ra sự thật của vô thường. Cũng chính vì nhận thấy rõ được sự không thật có nầy mà Thái Tử Tất Đạt Đa đã rời cung cấm để xuất gia tầm đạo khi Ngài 29 tuổi. Ở lứa tuổi thanh xuân, đầy hoa và mộng đẹp ấy Ngài đã bỏ lại hết sau lưng, đi vào rừng sâu núi thẳm, cốt tìm cho ra con đường diệt khổ. Đó chính là Tứ Diệu Đế, là 37 phẩm trợ đạo để cứu độ chúng sinh.

Rồi chư Tổ Sư truyền thừa cũng đã tiếp tục con đường thoát ly cõi tạm ấy để đến với Đạo Phật suốt hơn 25 thế kỷ qua. Dầu có nguồn gốc là người Ấn Độ, người Trung Hoa, người Đại Hàn, người Nhật Bản, người Việt Nam, người Thái Lan, người Anh, người Pháp, người Đức, người Mỹ, người Úc v.v…tất cả những vị xuất gia nầy tuy có khác nhau về nguồ gốc; nhưng khi đã vào Tăng Đoàn rồi thì đều lấy giới luật giống nhau làm căn bản; sống trọn vẹn một đời sống phạm hạnh của người xuất gia, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp v.v… Tất cả đều bình đẳng trên tinh thần giới luật của Phật chế; nhưng kết quả sự thực hành thì mỗi người khác nhau, không ai giống với ai cả. Có người thành tựu quả vị nhanh hơn và cũng có nhiều người lâu hơn hay dậm chân tại chỗ. Đây là do nhân duyên và nghiệp lực của mỗi người; chứ không phải do cha mẹ hay Thầy Tổ.

Ở một làng xã Xuyên Mỹ xa xôi; nơi quận Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam Việt Nam ngày ấy có một người con gái tên Mai, sinh năm 1939, xuất thân trong một gia đình thâm tín Phật Pháp. Ông Nội là một võ quan đã về hưu (ở quê tôi gọi ông là Ông Quản Thiều). Người cha là Ông Diên Trình đang làm việc ở Sở Công Chánh, sau khi vợ bị bạo bệnh và mất tại quê nhà đã nghỉ việc quay về quê mở trường dạy học, dành thời gian để thường lui tới các chùa, viện. Cô thiếu nữ nầy đã ý thức được sự vô thường sanh diệt; nên năm 15 tuổi xin phép gia đình xuất gia tầm đạo. Cô đã đến phố cổ Hội An tìm đến ngôi Chùa Sư Nữ Bảo Thắng. Thuở ấy đất nước Việt Nam tuy mới bị chia cắt Bắc Nam; nhưng đời sống hiền hòa từ chốn thôn quê dân dã đến phố cổ Hội An vẫn còn là nếp sống thanh bình an lạc. Khung cảnh an lạc chốn thiền môn đã giúp cho người Sư Nữ trẻ nầy lắng lòng làm bạn với tiếng kinh lời kệ, vui với sớm hôm chuông mõ muối dưa. Đời sống người xuất gia tuy đạm bạc nhưng nhờ ơn giáo dưỡng của sư phụ là Sư Bà Đàm Minh, người thiếu nữ ấy sau này đã trở thành một pháp khí của Thiền môn khi bắt tay thực hiện các chương trình từ thiện xã hội của Giáo Hội. Đó là lúc điều hành Cô Nhi Viện Diệu Định ở Đà Nẵng, đặc trách trường mẫu giáo của chùa Sư Nữ Bảo Thắng Hội An hay Ký Nhi Viện Bảo Quang và một vài nơi khác.

Rồi một ngày quê hương bị binh biến, bao nhiêu cảnh cũ người xưa bắt đầu từ tháng 4 năm 1975 đã hoàn toàn bị thay đổi. Từ ngày đó hàng triệu người Việt Nam đã lưu lạc khắp nơi trên toàn cầu để tìm cầu không khí tự do. Đến đầu những năm 1980 tình hình chính trị trong nước càng căng thẳng hơn, người em của Sư là Bác Sĩ Thị Minh Văn Công Trâm đã làm giấy bảo lãnh Sư sang Đức theo diện đoàn tụ gia đình nhưng Sư vẫn nấn ná chưa chịu đi vì muốn ở lại quê hương phụng hầu Thầy Tổ, nhất là thời gian này sư phụ đã già yếu. Trong khi đó làn sóng người tỵ nạn đến Đức ngày càng dồn dập, nhu cầu hướng dẫn và chăm sóc đời sống tinh thần của Phật tử trên xứ người ngày càng bức thiết hơn. Giữa năm 1981 tôi đã viết hai lá thư gởi về Việt Nam; một gởi cho Sư Diệu Tâm để hối thúc Sư đi làm giấy tờ xuất cảnh, một lá thư khác gởi trực tiếp đến Sư phụ của Sư là Sư Bà Đàm Minh ở Đà Nẵng đề nghị Sư Bà khuyên Sư Diệu Tâm nên sang Đức nhanh để cùng hợp lực với chúng tôi trong những Phật sự gian nan này. Do vậy, mùa hè năm 1984 Sư Diệu Tâm đã đặt chân đến Hamburg. Bước đầu nào mà không đầy ắp khó khăn: từ ngôn ngữ, khí hậu, phong tục, tập quán v.v… mọi thứ đều lạ lẫm. Có lần Sư bảo rằng: “Làm việc Đạo tại xứ Đức nầy khó khăn giống như người đi gieo hạt Bồ Đề trên nền xi măng”. Quả thật vậy! làm việc Đạo ở xứ Âu Mỹ nầy nó chẳng đơn thuần là mấy; chính cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm cũng đã có lần thổ lộ nỗi khó nhọc này là: “trồng sen trên xứ tuyết”. Và đây là một đề tài mà Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng ở Úc đã viết một bài khảo luận rất hay và trọn vẹn với ý nghĩa của những nhận định ấy (xem bài này).

Tôi được quen biết vị Sư Nữ ấy từ khi quê hương còn chinh chiến. Có lúc tôi gọi Sư bằng Chị cho thân mật, lúc gọi bằng Cô, lúc gọi bằng Sư, rồi Ni Sư, Sư Bà v.v… nghĩa là tất cả các cách gọi khác nhau; nhưng tựu chung vẫn là người cùng quê hương Xuyên Mỹ thuở nào. Mỗi khi tôi đến thăm Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm, kể từ khi Niệm Phật Đường Bảo Quang mới được thành lập tại Hamburg vào năm 1984 tính đến nay cũng đã 37 năm rồi, mỗi lần như thế chúng tôi đều kể cho nhau nghe về quê hương xứ Quảng, ai còn ai mất cũng như bàn về các công việc Phật sự đó đây. Có lần Sư nói với tôi rằng: “Sao có kẻ thấy người khác phát tâm đi làm Phật sự mà lại cứ lời ra tiếng vào. Bởi vậy Sư đã khuyên những kẻ ấy là: Chớ nên cản duyên thiện sự. Người ta làm chùa, đúc tượng, tô chuông để cúng dường Tam Bảo, phục vụ nhân sinh chứ họ đâu có tội tình gì mà mình cản trở việc làm thiện lương nầy. Nếu ta không đóng góp được gì thì cứ chọn thái độ lặng thinh. Còn bàn ra tán vào, khiến cho kẻ khác nản chí cũng là một cái tội đấy”. Khi nghe những lời phân tích tình lý như vậy, có nhiều người trước kia thường phê phán này nọ thì nay không còn phê bình nữa. Đồng thời những vị trước kia đã nản lòng, nay phấn chấn tiếp tục lên đường để lạc quyên và tạo cơ hội cho nhiều người khác gieo duyên với Tam Bảo.

Nhiều khi Sư tâm tình với quý Thầy trẻ rằng:” Tôi thấy quý Thầy cái gì cũng được, cũng giỏi; nhưng nhiều Thầy rất yếu lòng với nữ sắc”. Điều nầy hẳn thật có! Bởi lẽ suốt cuộc đời tu hành của Sư với 57 năm hạ lạp và bao nhiêu năm học đạo với Tiểu Ni, Sa Di Ni, rồi Thức Xoa Ma Na Ni đến Tỳ Kheo Ni; trải qua không biết bao nhiêu là thử thách để được nhận giới thể Tỳ Kheo Ni, Sư đã phải chiến đấu với tự thân, với chính mình và với tha nhân; nên Sư mới còn trọn vẹn cho đến ngày hôm nay sau 83 năm có mặt nơi trần thế và 68 năm trong đạo như vậy. Chúng ta có thể tuyên dương Sư với câu: “Đồng Nữ Thanh Tịnh Đại Trượng Phu” hay “Một bậc Ni Lưu Khả Kính của Giới Xuất Gia” cũng không ngoa chút nào. Người xưa nói rằng: “Chiếc áo không làm nên Thầy Tu”; nhưng trên thực tế nếu người Tu Sĩ mà không mặc chiếc áo người Tu thì cũng không thể gọi là một nhà Tu hành được. Nhờ chiếc áo mà phạm hạnh của một người Tu có thể giữ tròn được. Ở ngoài đời kia có biết bao nhiêu người cạo tóc; nhưng không cạo tâm và không mặc chiếc áo nhà tu thì cũng chẳng thể gọi họ là Tu Sĩ được.

Hôm lễ tang của Sư tôi đã nhắc lại hai điều quan trọng nầy rồi; chỉ có thiếu một việc là ngâm bài thơ: “Bao giờ nhĩ tôi về thăm xứ Quảng” của nhà thơ Trần Trung Đạo cho Sư nghe vì tôi biết sinh thời Sư cũng rất thích bài thơ này. Chương trình Đêm Tâm Tình trước khi di quan Sư hôm đó thời gian quá khít khao nên tôi đã không ngâm tặng Sư được và hẹn đến tuần 49 ngày. Nhưng rồi lại cũng một lần nữa không ngâm được vì thời gian Lễ Tuần 49 ngày cũng không cho phép. Cuối cùng tôi đã ngâm trong căn phòng của Sư từng ở, có sự hiện diện của Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt và Hòa Thượng Thích Trí Minh nghe và chắc chắn hôm đó Sư cũng đã nghe rồi. Như vậy món nợ nầy tôi đã trả và mong rằng Sư hãy ở yên nơi cõi Tịnh, dõi mắt về nơi Ta Ba nầy để mừng cho Tử, Đệ của mình - cả tại gia lẫn xuất gia - ai ai cũng quý mến Sư nên đã đến, đi, chia xẻ, ngậm ngùi tiễn biệt Sư lần cuối khi xác thân cát bụi của Sư được chôn vào lòng đất vào ngày 30 tháng 7 năm 2021 vừa qua, kết cuộc một cuộc đăng trình dài 83 năm nơi trần thế, với 57 hạ lạp và 68 năm xuất gia hành đạo.

Bây giờ thì đến lúc mà người xưa thường nói là: ”蓋棺論定- cái quan luận định”. Bốn chữ này có nghĩa là khi nắp quan tài được đậy lại thì người đời mới có thể luận định đúng sai. Lúc nầy chính là lúc: “cái gì là sự thật, xin trả về cho sự thật”. Mà sự thật trên thế gian nầy là gì? Là chẳng có cái gì cả! Tất cả đều trống không. Tất cả đều vắng lặng như tinh thần của Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa mà Ngài Huyền Trang đã cho phiên dịch từ tiếng Sanscrit sang chữ Hán từ ngày mùng một tháng giêng năm 661 đến ngày 23 tháng 10 năm 663, ròng rã suốt hơn 34 tháng trường. Kinh văn có 600 quyển, gồm 24 tập (xem kinh này, bản Việt dịch của Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm); mỗi tập dày độ 500 đến 700 trang và ý nghĩa cuối cùng chỉ là một chữ KHÔNG. Không đây là: không đến, không đi, không còn, không mất, không tăng, không giảm, không một mà cũng chẳng phải khác một.

Đó là một chấm câu và cũng để kết thúc một chuyến đi về của Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm trên cõi tạm nầy. 

Viết xong vào lúc 13:00 ngày 3 tháng 8 năm 2021 nhằm ngày 25 tháng 6 năm Tân Sửu tại thư phòng của Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 






facebook-1
***
youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/01/2022(Xem: 4932)
Ni Trưởng Thích Nữ Đạt Hương, vừa viên tịch tại Chùa An Tường, Nha Trang, Khánh Hòa
07/01/2022(Xem: 5009)
Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Đầy, sinh năm 1932, tại xã Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, xuất gia năm 17 tuổi; thọ giới Sa-di-ni, năm 1952 thọ giới Thức-xoa tại chùa Huê Lâm (quận 11, Sài Gòn). Năm 1958, Ni trưởng theo học Trung Đẳng Phật học do quý Hòa thượng Ấn Quang tổ chức, nhập học Ni trường Dược Sư. Năm 1959, Ni trưởng tấn đàn thọ Tỳ-kheo-ni tại Dược Sư. Sau khi tốt nghiệp khóa học này, Ni trưởng được theo học dự bị khoá Đại học Vạn Hạnh (1968), được cử làm Thư ký Ni trường Dược Sư. Năm 1971, Ni trưởng theo dự học khóa thiền hàng tháng tại tu viện Chân Không (Vũng Tàu). Năm 1976, Sư bà Bạch Vân viên tịch, di chúc Ni trưởng kế thế trụ trì, kế thừa phận sự chăm sóc Ni chúng và hướng dẫn Phật tử.
30/12/2021(Xem: 6943)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
26/12/2021(Xem: 3825)
Tổ Liễu Quán sinh ngày 18 tháng 11 năm 1667 tại làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, nay là xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên . Ngài mồ côi mẹ lúc lên 6 tuổi. Năm 12 tuổi theo cha lên chùa Hội Tôn lễ Phật. Vì cảm mến cảnh chùa nên xin cha ở lại tu học. Duyên lành đến, hòa thượng Tế Viên xuống tóc và ban cho ngài pháp danh Thiệt Diệu. Năm ngài 19 tuổi, bổn sư viên tịch. Ngài tìm đến núi Hàm Long chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) cầu học với tổ Giác Phong. Năm 1695 thọ Sa Di giới với hòa thượng Trường Thọ Thạch Liêm. Năm 1697, thọ Cụ Túc giới với hòa thượng Từ Lâm và năm 1699 ngài bắt đầu cuộc hành trình tham vấn cầu đạo khắp các thiền lâm, tâm thường suy nghĩ: Pháp nào là tối vi đệ nhất ta quyết xả thân mạng y theo pháp tu hành. Nghe chư thiền đức cho biết hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung khéo dạy pháp tham thiền. Ngài đến núi Long Sơn chùa Ấn Tôn (Từ Đàm) bái yết Hòa thượng Tử Dung cầu pháp. Tổ Tử Dung dạy pháp tham cứu công án " Muôn pháp quy về một, một quy về đâu?" . Một hôm nhân xem Truyề
18/12/2021(Xem: 4191)
Thượng Tọa Thích Phước Hựu vừa viên tịch tại Victoria, Úc Châu
16/12/2021(Xem: 4098)
Sáng qua, 22- 4, tại chùa Hội Phước (P.Nghĩa Chánh, TP.Quảng Ngãi) đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm lần thứ 50 ngày HT.Thích Giải Hậu viên tịch. HT.Thích Trí Thắng, Ủy viên HĐTS, Phó ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Ngãi; chư tôn giáo phẩm trong Thường trực BTS, Thường trực Ban Hướng dẫn Phân ban GĐPT Quảng Ngãi, cùng đại diện chính quyền và gần 200 thiện nam tín nữ gần xa tham dự. HT.Thích Giải Hậu thế danh Đỗ Minh Đường, sinh năm Mậu Ngọ 1918 tại làng Sung Tích, xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, xuất gia năm 1935 tại tổ đình Sắc tứ Thiên Ấn, đệ tử của cố HT.Diệu Quang - Đệ lục Tổ.
15/12/2021(Xem: 6542)
Thành Kính Tưởng Niệm Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn, Viện Chủ Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
09/12/2021(Xem: 22716)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
06/12/2021(Xem: 4375)
Thông minh tam học thảy am tường Viên Chiếu thiền sư tham vấn nương Yếu chỉ thiền na thầm lãnh hội Huyền tâm thể tánh khéo thừa đương Đối cơ ứng vật thông nguồn diệu Gặp cảnh hoà tâm mở suối lương Thiền mạch tuôn trào ra mọi nẻo Non sông cẩm tú đạo soi đường .
23/11/2021(Xem: 4940)
Hòa thượng Thích Nhật Khai tự Diệu Trí (thế danh Nguyễn Đức Luân), sinh năm 1931 (Tân Mùi), thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41, xuất gia tại tổ đình Quốc Ân, thuộc phái Nguyên Thiều, trú xứ tại chùa Giác Hoa. Do niên cao, lạp trưởng, Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 17 giờ ngày 21-11-2021 (17-10-Tân Sửu) tại chùa Giác Hoa (số 17/5 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh, TP.HCM).; trụ thế 91 năm, 65 Hạ lạp. Lễ nhập kim quan được cử hành vào lúc 21 giờ ngày 21-11-2021. Kim quan Trưởng lão Hòa thượng được tôn trí tại chùa Giác Hoa (số 17/5 Nơ Trang Long, Phường 7, quận Bình Thạnh, TP.HCM).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]