Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Trưởng lão HT.Thích Ngộ Tánh (1940-2020)

05/12/202020:22(Xem: 3421)
Tiểu sử Trưởng lão HT.Thích Ngộ Tánh (1940-2020)


ht thich ngo tanh


Tiểu sử

Trưởng lão HT.Thích Ngộ Tánh

(1940-2020)

Thân thế

Hòa thượng Thích Ngộ Tánh họ Trịnh, húy Văn Bảo, sinh ngày 12-8-1940, tại thôn Mỹ Lợi, xã Ninh Lộc, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ngài xuất thân trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam bảo. Thân phụ là cụ ông Trịnh Dục, thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Hội. Gia đình Hòa thượng có bảy anh em, ngài là người con thứ bảy trong gia đình.

Thời kỳ xuất gia học đạo và thọ giới

Vốn sẵn có túc duyên với Phật pháp, năm 1960, thân mẫu đưa ngài về chùa Chi Hội (nay là chùa Đức Hòa) xin quy y với Hòa thượng Thích Viên Nhơn, được đặt pháp danh là Quảng Thường, nối dòng Lâm Tế đời thứ 45.
Năm 1961, ngài được Hòa thượng bổn sư đưa ra chùa Báo Ân, phường An Cựu, thành phố Huế, tu học với Hòa thượng Thích Chánh Trí, song song đó học nghi lễ tại chùa Phổ Quang (Bến Ngự).
Năm 1963, do phong trào đàn áp Phật giáo của chính quyền đương thời, ngài về chùa Từ Đàm trú một thời gian đến năm 1964, vào tu học ở Phật học viện  Phổ Đà (Đà Nẵng) do Hòa thượng Thích Minh Chiếu nuôi dưỡng.
Đến năm 1969, ngài lên tu học tại chùa Hồng Từ, tỉnh Kon Tum, nơi Hòa thượng bổn sư trụ trì.
Năm 1970, ngài được đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn Vĩnh Gia (chùa Pháp Lâm, Tỉnh Hội Phật giáo Đà Nẵng). Cùng năm đó, ngài nhập học tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Sài Gòn, đến cuối năm chuyển về Phật học viện Hải Đức - Nha Trang học chuyên khoa cao đẳng đến năm 1973.

Thời kỳ hành đạo

Năm 1973, đủ cơ duyên hoằng pháp, ngài tham gia khóa Phú Lâu Na và cùng đoàn hoằng pháp “Như Lai Sứ Giả” dấn thân đi thuyết giảng Phật pháp khắp Nam kỳ lục tỉnh, mở lớp huấn luyện Phật giáo ở Gò Công (Tiền Giang).
Cuối năm 1974, ngài trở về chùa Chi hội Phật giáo Ninh Hòa (nay là chùa Đức Hòa), thừa tiếp huấn dụ của Hòa thượng bổn sư xây dựng thiền thất Viên Ngộ, tại thôn Ninh Ích, xã Ninh An, Ninh Hòa, Khánh Hòa. Những thập niên sau đó, ngài cùng sự chung sức của hai vị sư đệ là Hòa thượng Thích Ngộ Tịnh và Hòa thượng Thích Ngộ Trí, phát dương “chùa Cốc” trở thành ngôi già-lam, làm chốn tổ đình cho chư Tăng thuộc tông môn Viên Ngộ.
Sau năm 1975, đất nước lâm vào tình hình khó khăn chung, ngài cùng huynh đệ phát rẫy, làm ruộng, lao động để tự túc kinh tế, song song việc hành trì và lập đạo tràng hướng dẫn Phật tử tu tập.
Từ năm 1976, ngài cùng Tăng-già huyện nhà tùy duyên tu tập, cho đến khi Ban Đại diện Phật giáo Ninh Hòa thành lập, ngài làm Phó ban Đại diện kiêm Thư ký.
Năm 1990, ngài nhận trách nhiệm trụ trì chùa Chi hội. Từ khoảng thời gian này, trong cương vị Chánh Đại diện Phật giáo huyện Ninh Hòa, ngài tích cực mở lớp giáo lý dạy cho cư sĩ tại gia, các lớp bổ túc giáo lý cho tiểu điệu nhân mùa kiết hạ, đồng thời thúc đẩy tổ chức Gia đình Phật tử sinh hoạt mạnh dần trở lại.
Năm 2000, theo di nguyện của cố Hòa thượng Thích Hạnh Hải, Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa đã bổ nhiệm ngài kiêm trụ trì Tổ đình Thiên Bửu. Hai năm sau, ngài đã khai giảng khóa đầu tiên lớp Sơ cấp Phật học Ninh Hòa, đặt tại tổ đình Thiên Bửu, để truyền dạy Phật học cơ bản cho chúng tân xuất gia, đến nay đã được 7 khóa. Song song đó, công tác tái thiết trùng tu ngôi tổ đình vẫn tiến hành, cho đến năm 2003 hoàn thành, khánh tạ.
Với tâm nguyện kiến tạo một cơ sở khang trang để Tăng Ni, Phật tử trong huyện sinh hoạt và tu học, từ năm 2005, ngài phát nguyện đại trùng tu ngôi Tam bảo chùa Chi Hội, đổi tên thành chùa Đức Hòa; năm 2012, tiếp tục xây bảo tháp Báo Ân tưởng niệm Bồ-tát Thích Quảng Đức; năm 2016, xây thêm giảng đường; đến ngày 6-5-2018 chính thức hoàn công và khánh tạ lạc thành ngôi phạm vũ trang nghiêm tố hảo.
Ngoài ra, ngài cũng đã khai sơn những ngôi chùa, tịnh thất khác trong thị xã Ninh Hòa, như: chùa Đức Sơn xã Ninh Sơn, chùa Khánh Sơn xã Ninh Thượng, tịnh thất Hương Thủy xã Ninh Thủy, chùa Mỹ Sơn xã Ninh Lộc, chùa Hương Sơn xã Ninh Ích, chùa Tây Thiên xã Ninh Tây.
Năm 2006, ngoài công tác Phật sự tại Ninh Hòa, ngài được Giáo hội bổ nhiệm chức vụ Phó Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa.
Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh Khánh Hòa lần thứ VI (nhiệm kỳ 2017-2022), Hòa thượng được cung cử đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa.

Sự nghiệp tu tập và đào tạo Tăng tài

Mặc dù công tác Phật sự đa đoan, thân mang tật bệnh, nhưng ngài vẫn luôn duy trì việc bồi công dưỡng đức. Pháp môn chính ngài thường xuyên hành trì là nghi thức lễ sám 108 lạy do Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ soạn. Ngoài ra, ngài còn thọ học gia trì Hiển Mật từ cố Hòa thượng Thích Hạnh Hải, trì Ngũ bộ chú và lâm đàn Chẩn tế tại các trai đàn.
Với tâm nguyện phát dương Phật pháp tại quê hương Ninh Hòa, ngài đã công cử và bổ xứ cho hầu hết các chùa, tịnh xá trong huyện gần 100 ngôi đều có Tăng Ni về trụ trì, hướng dẫn phật tử tu học. Trong cương vị lãnh đạo Phật giáo địa phương, ngài thường xuyên thân hành về từng trú xứ tự viện để thăm nom và sách tấn chư Tăng Ni trong công tác phụng sự đạo pháp.
Năm 1990, trường Cơ bản Phật học (sau này là Trung cấp Phật học) Khánh Hòa khai giảng khóa I tại Nha Trang, ngài đã tham gia Ban giảng huấn, làm Giáo thọ giảng dạy suốt nhiều khóa liền.
Từ năm 1993, các Đại giới đàn mang tôn hiệu Trí Thủ, Bồ-tát Quảng Đức, khai đàn thí giới cho Tăng Ni, Phật tử, ngài đều được cung thỉnh vào ngôi Giáo thọ A-xà-lê. Năm 2019, trong cương vị Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, ngài đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban kiến đàn Đại giới đàn Bồ-tát Quảng Đức.
Tại các Đại giới đàn mang tên Cam Lộ tổ chức tại chùa Minh Thành (Gia Lai), ngài được cung thỉnh làm Tôn chứng Tăng-già.
Công hạnh của ngài luôn từ hòa, bao dung, dang rộng vòng tay tiếp độ và giáo dưỡng. Nhờ đó, ngài đã nuôi dạy thành tài chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đến số trên trăm người, có thể kể như các vị: Nhuận Hải - Đạo Tâm, Nhuận Thông - Đạo Minh, Nhuận Quang - Đạo Nguyên, Nhuận Dung - Đạo Tuyên, Nhuận Đức - Đạo Thuyên, v.v., chưa kể số sư cháu trong tông môn, và đệ tử tại gia có đến hàng vạn.
Với những công hạnh rạng ngời như thế, ngài đã được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc năm 2012.

Giai đoạn viên tịch

Suốt hơn 7 thập kỷ hiện hữu trong cõi Ta-bà giả tạm này, Hòa thượng đã thị hiện một đời sống phạm hạnh nghiêm trang, châu thân giới đức sáng ngời, xứng đáng là bậc thạch trụ thiền gia. Thế nhưng, gót hài in dấu phiêu du rồi cũng đến lúc phai nhòa trên vạn nẻo đường hành cước. Ngài đã nhẹ gót tiêu dao trên lối mòn cổ đạo, trời Tây phương sen nở có tên rồi.
Vào lúc 9 giờ 10 phút, ngày 5-12-2020 (tức 20-10-Canh Tý), do niên cao lạp trưởng, tứ đại căn trần khô kiệt, giả tướng suy hao, ngài đã giã từ chốn huyễn, an nhiên thị tịch, để lại nỗi trống vắng chơ vơ cho môn đồ pháp quyến, và sự tiếc nuối kính yêu cho Tăng Ni, Phật tử Khánh Hòa.

GN (Nội dung do Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa cung cấp đến báo Giác Ngộ)
https://giacngo.vn/lichsu/nhanvat/2020/12/05/1344CB/





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7132)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4190)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4823)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5577)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6184)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3803)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5233)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5313)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12927)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11485)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567