Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu Văn Tưởng Niệm Ân Sư

06/10/202014:18(Xem: 3477)
Điếu Văn Tưởng Niệm Ân Sư
ht thich giai thien 2
 Hoà Thượng Thích Giải Thiện (1941-2020)
Điếu Văn Tưởng Niệm Ân Sư
Thành kính tưởng niệm Giác Linh Hoà Thượng Ân Sư Tân Viên Tịch thượng Giải hạ Thiện.
Kính nguyện Giác Linh Hoà Thượng Cao Đăng Phật Quốc.
Trời Sài Thành mưa rơi gió nhẹ
Vườn Đức Lâm cây rủ hoa buồn
Tại Linh Đường Tăng chúng tiếc thương
Nơi Trượng Thất Thiền sàng vắng lặng.
Thế là: Củi hết lửa tắt, nhật vãng nguyệt lai
Tử biệt sanh ly, Ta Bà cõi tạm, Tịnh Độ quê chơn
Sống gởi thác về, tịch nhi phi tịch.
Nhớ Giác Linh xưa:
Tại xã Lân Đức huyện Mộ Đức tuỳ duyên xuất thế.
Nơi nước Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi hiện hạnh sanh thân.
Ấu thơ tánh nết ngoan hiền, khiêm cung, lễ độ.
Lớn lên tâm tư thuần hậu, hoà nhã, nhân từ.

Gia đình mộ Phật, khi Ngài lên tám tuổi chí xuất trần phát khởi, tâm mến đạo trào dâng, lòng trông mong được thân gần nơi cửa Phật, ý ao ước được quy hướng chốn già lam, để lắng nghe mõ sớm chuông chiều, kệ kinh trầm bỗng.

May mắn thay được song thân cho phép nên Ngài được xuất gia, nương Bổn Sư thượng Pháp hạ Hữu làm thầy, dựa Hoà Thượng thượng Trí hạ Hưng làm y chỉ. Từ đó, nơi già lam Từ Quang ngày ngày học kệ kinh, chuông khuya mõ sớm nuôi dưỡng thiền tâm. Chốn không môn Từ Lâm năm tháng thọ pháp nhũ, cơm trưa cháo tối vun bồi chí đạo, cần mẫn siêng năng công phu chấp tác, nhu hoà chăm chỉ, học hỏi trao dồi. Vì thế, nên được Thầy thương bạn mến, bổn đạo thân gần, hạnh đức thơm lan, đèn tâm tỏ rạng. Năm mười sáu tuổi, Được Hoà Thượng Thích Trí Hưng gởi vào Nam cho đăng đàn thọ Sa Di giới, nương Giác Lâm thiền môn làm nơi cư ngụ, dựa Tôn Sư Thiện Thuận làm thầy y chỉ. Đất khách quê người, xa Thầy cách bạn, sao khỏi buồn tủi ôm nỗi nhớ thương. Quê cha đất tổ, cách xóm xa làng, đành cam ngậm ngùi chịu niềm lưu luyến. Nhưng rồi, ngày tháng thoi đưa, với chí nguyện tinh cần siêng năng, chăm chỉ, từng bước Ngài đã vượt qua nỗi khó khăn, dần dần làm quen với cuộc sống mới. Ngài đã được chư tăng thương mến, Phật tử nể vì.

Năm 1971, duyên lành hội đủ, Hoà Thượng được tôn sư cho đăng đàn thọ cụ túc giới. Từ đây giới thể châu viên, tâm đăng tỏa sáng. Ngài tham dự vào Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, bao năm đèn sách, kinh luật luận nghiên tầm, hoa tuệ giác bừng nở, ngày tốt nghiệp ra trường tràn niềm hoan hỷ, thỏa chí ước mong. Từ đó, sở học sở hành song song thi hoá, vận khởi bi tâm truyền trao giáo dưỡng pháp lữ đồng hành, huynh đệ đồng môn, khi thì giảng dạy kinh văn ở Giác Lâm, Tân Bình, lúc thì truyền trao luật luận nơi Tuyền Lâm, Quận Sáu.

Năm 1988 tông môn giáo hội công cử Ngài về trú trì Đức Lâm cổ tự. Từ đó, Hoà Thượng khép mình không ra khỏi cửa thiền môn, gác chuyện lợi danh ngoài vòng nhân thế, mật hạnh tu hành, tiếp tăng độ chúng, trùng hưng Tam Bảo, khiến cho ngôi cổ tự nhỏ bé vắng vẻ thuở nào, thành ngôi phạm vũ trang nghiêm đông đảo môn đồ học chúng hiện tại. Đối với bản thân Hoà Thượng luôn tự mình thúc liễm thân tâm, tri hành hiệp nhứt, giờ khắc nghiêm túc, sống đời giản dị thanh tu, nâu sồng đạm bạc. Đối với môn nhân đồ chúng, Ngài từ bi rộng lượng cưu mang chở che ban phát, giúp đỡ, xẻ chia, không phân chủ khách, lấy trí tuệ làm sự nghiệp nên kinh luật luận thường thọ trì, dùng phương tiện độ nhân sinh mượn chuyện cát hung giải nghi khi nhân gian thưa hỏi, để rồi dắt dìu kẻ sơ cơ, đỡ nâng người lạc lối, khiến cho kẻ đến người đi, cả khách tăng lẫn người tục đều cảm phục mến thương tư phong thuần hậu nhu hoà, an yên vô sự của Ngài.
Những tưởng:
Đèn thiền mãi sáng, gương hạnh hằng soi!
Nào ngờ đâu:

Gió vô thường thổi đến, sóng sanh tử gợn xô, đèn lưu ly chợt tắt, hương mạt lị thơm lừng. Giờ Ngọ, ngày Rằm, tiết Trung Thu, năm Canh Tý, nơi trượng thất bóng lặng phòng không, vườn Đức Lâm cây buồn hoa rủ. Môn đồ học chúng ngậm ngùi thương tiếc rơi lệ, lãnh thọ di ngôn chu toàn hiếu sự. Pháp phái tông Môn xúc động bàng hoang tưởng niệm khấp bái tiễn biệt.

Thế là:
Từ nay, môn đồ pháp quyến mất đi người Thầy khả kính, Thiền gia mất đi một thạch trụ, Môn phong pháp phái mất đi một pháp lữ đồng hành. Nhưng hoa đàm tuy rụng vẫn còn hương. Hoà Thượng đi vào cõi vô tung bất diệt. Gương hạnh sáng ngời và đạo phong trác việt của Ngài mãi còn rạng soi cho hàng Tăng tục hậu học chúng con.

Từ nơi trời phương ngoại xa xôi, cách quê hương Việt Nam thân yêu hơn nửa vòng trái đất. Vì dịch bịnh lay lan, việc đi lại khó khăn, con không thể về nơi cổ tự Đức Lâm, để đảnh lễ hầu kim quan Ân Sư được. Con thành kính vọng về nơi Giác Linh Đường khấp lễ tưởng niệm, lòng thành cẩn bút ghi đôi dòng điếu văn và thơ tán dương hạnh đức của Người, hầu báo đền thâm ân trong muôn một.

“Giải Thiện Ân Sư đức hạnh toàn
Sống đời thanh đạm nhẹ nhàng an
Thiền môn phục dựng trang nghiêm điện
Đồ chúng cưu mang thanh tịnh tăng
Giản dị ung dung nuôi chí đạo
Hiền hoà tự tại dưỡng tâm trang
Lợi danh bỏ lại ngoài nhân thế
Trượng thất già lam vô sự nhàn.
Trượng thất già lam vô sự nhàn
Tiếp tăng độ chúng hạnh cưu mang
Không phân chủ khách đạo tình thắm
Chẳng bận lợi danh gương đức trong
Hỷ xả bao dung tâm rỗng lặng
Từ bi che chở hạnh viên tròn
Ta Bà mãn nguyện về Tây cảnh
Xả báo an tường thượng phẩm đăng”.
Kính nguyện Giác Linh Hoà Thượng Ân Sư Thượng Phẩm Thượng Sanh Cao Đăng Phật Quốc,nơi Tịnh Độ tuỳ duyên dạo bước vân du, chốn Ta Bà thuỳ nguyện tiêu dao hoá độ.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Phụng vì Đức Lâm Đường Thượng, Từ Lâm Tế Chúc Thánh Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế, Tân Viên Tịch Giác Linh Hoà Thượng thượng Giải hạ Thiện Thuỳ Từ Chứng Giám.
California, 05-10-2020
Pháp Tử-Thích Chúc Hiền ( Khấp bái, kính ghi)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7676)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18547)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5253)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7273)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4353)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17140)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8174)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4630)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5407)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5068)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567