Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Lưu Thanh

29/06/202016:12(Xem: 5910)
Tiểu sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Lưu Thanh

ht thich luu thanh 2
TIỂU SỬ
CỐ TRƯỞNG LÃO HOÀ THƯỢNG
Huý thượng NGUYÊN hạ TỊNH, hiệu LƯU THANH
Giáo Phẩm Chứng Minh Môn Phái Tây Thiên
Phương Trượng Tổ Đình Trúc Lâm –Huế

I. THÂN THẾ
Trưởng lão Hoà thượng thế danh Nguyễn Ngọc Khê, Pháp danh Nguyên Tịnh, Pháp tự Thích Lưu Thanh, hiệu Ngân Bình.
Hoà thượng sinh ngày mồng 3 tháng 11 năm Tân Tỵ, Chánh quán tại làng Cư Chánh, xã Thượng Bằng, quận Nam Hoà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thôn Cư Chánh, xã Thuỷ Bằng, Thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Thân sinh là Cụ ông Nguyễn Ngọc Chút, Pháp danh Nguyên Đại, Thân mẫu là Cụ bà Hồ Thị Mài, Pháp danh Nguyên Khiết. Cố Hoà thượng là con thứ 4 trong gia đình gồm 6 trai và 1 gái. Chị cả và anh trai thứ 2 qua đời rất sớm. Người em trai thứ 5 của Cố Hoà thượng cũng được nhân duyên xuất gia đầu Phật tức Pháp đệ Thích Tín Đạo. Hoà thượng Thích Tín Đạo cũng đã viên tịch.

II. THỜI GIAN XUẤT GIA HỌC ĐẠO
 Hoà thượng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống kính tin Tam Bảo và nhờ có sẵn hạt giống xuất trần từ nhiều kiếp cho nên Hoà thượng đã được kết duyên với chốn Thiền môn ngày từ thuở nhỏ. Vì vậy, Hoà thượng đã sớm nhận thức được cuộc đời huyễn mộng, thế sự phù vân, chỉ có đạo giải thoát mới là cứu cánh phải nương về. Nhờ được túc duyên gần gũi học tập giáo lý với các bậc Cao Tăng, đặc biệt là Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Đức Tâm tận tình chỉ dạy nên Cố Hoà thượng lại càng thâm nhập giáo lý vô thường của Phật đà.

 Từ đó hoa Thiền chớm nở, Hượng đạo càng thơm, Hoà thượng thường vào Tổ đình Trúc Lâm lễ Phật, thân cận với chư Tăng bổn tự.
 Năm 1960, với sự động viên khuyến tấn của quý Thầy, nhất là sự thương mến, hướng dẫn của Cố Hoà thượng Thích Lưu Đoan. Năm 19 tuổi, Hoà thượng đã xin phép song thân xuất gia đầu Phật với Đức Cố Đại Lão Hoà thượng huý thượng Tâm hạ Hương, Đạo hiệu Thích Mật Hiển – Nguyên Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên – Huế, Trú trì Tổ đình Trúc Lâm thuộc thôn Thượng Một, xã Thuỷ Xuân, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là Phường Thuỷ Xuân, TP Huế).

Kể từ buổi sơ tâm xuất gia hướng Phật, Hoà thượng nổ lực hôm sớm kệ Kinh, siêng năng học đạo, sau 3 tháng đã học thuộc hai thời công phu và bốn cuốn Luật tiểu. Sau 2 năm cần mẫn “phụng Phật hầu Thầy” năm Nhâm Dần (1962), Ngài Đại lão Hoà thượng Bổn sư thấy Hoà thượng là người đệ tử siêng năng chất phát, tính tình hoà nhã, thiết tha cầu đạo, Hoà thượng đã được Bổn sư làm lễ thế phát và trao truyền Sa-di thập giới với Pháp danh Nguyên Tịnh, Pháp tự Lưu Thanh, thuộc đời thứ 44 dòng Thiền Lâm Tế và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán  - Nam Hà.

Hoà thượng với tâm nguyện: “Bỏ ngoài ngàn dặm lòng tham dục, để lẽ huyền vi mãi ở trong”, với tinh thần cần mẫn tiến tu, oai nghi đĩnh đạt xứng đáng bậc pháp khí đại thừa, Hoà thượng đã được Bổn sư cho phép đăng đàn thọ  Tỳ-kheo Bồ tát giới tại Đại giới đàn Vạn Hạnh tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu năm Ất Tỵ (1965) do Đức Đệ nhị Tăng Thống Đại lão Hoà thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu Hoà thượng và Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Mật Nguyện – Chánh Đại diện Miền Vạn Hạnh và tỉnh Thừa Thiên làm Chánh Chủ Đàn.

Gần cuối năm Ất Tỵ (1965), Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Chánh Trực thành lập phái đoàn Sứ giả Như Lai đi về các huyện để thành lập Khuôn hội và diễn giảng Phật pháp, Hoà thượng là 1 trong 20 vị của phái đoàn.

Năm Đinh Mùi (1967), Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Mật Nguyện cùng với Chư vị Tôn túc trong Giáo hội Thừa Thiên khai giảng lớp học Cao đẳng Phật học Liễu Quán nội trú trong 4 năm tại chùa Linh Quang. Chính trong lớp học này, Cố Hoà thượng và các vị Tăng sinh đã được sự ân cần dạy bảo truyền trao Kinh, Luật, Luận từ các bậc danh Tăng thạc đức như: Đức Cố Đại lão Hoà thượng Linh Mụ, Đức Cố Đại lão Hoà thượng Trúc Lâm, Đức Cố Đại lão Hoà thượng Già Lam, Đức Cố Trưởng lão Hoà thượng Linh Quang, Đức Cố Đại lão Hoà thượng Từ Đàm, Cố Trưởng lão Hoà thượng Pháp Hải,…
Giữa năm Kỷ Mùi (1969), Cố Hoà thượng được Bổn sư cho phép vào miền Nam theo học lớp bồi dưỡng Sứ giả Như lai mà Cố Hoà thượng là 1 trong 15 vị được Giáo hội Thừa Thiên tuyển chọn.

III. Quá trình hành đạo
Sau những năm tháng nương nhờ ơn giáo dưỡng của đức Thầy cao cả, Hoà thượng tự nghĩ “Một ngày hội ngộ là duyên, ơn thầy giáo dưỡng suốt đời lo toan”. Cho nên sau những ngày phát nguyện tu học Chánh pháp, Hoà thượng càng thấm nhuần sâu sắc giáo lý nhiệm mầu vô thượng của Phật Pháp từ Ngài Bổn sư dạy bảo và các bậc Tôn túc trao truyền. Hoà thượng đã tự nhận thấy trọng trách vô cùng to lớn của một đệ tử xuất gia “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, Hoà thượng luôn canh cánh trong lòng sự nghiệp “Hoằng dương Chánh Pháp, lợi lạc quần sanh”.
Cuối năm 1969, sau khi theo học lớp bồi dưỡng giảng sư, Hoà thượng đã được cử đi thuyết giảng tại các vùng thuộc Cao Nguyên Trung Phần như: Gia Lai, Phúc Bổn, Phong Dinh,…

Năm 1970, Hoà thượng được cử về  tỉnh Quảng Trị đảm nhận vai trò Giảng sư hoằng pháp phụ tá Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Chánh Trực lúc đó là Chánh đại diện Tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Trị.

Từ năm 1972 – 1992, Hoà thượng tiếp tục làm giảng dạy Phật pháp tại một số lớp học nội điển, các Đạo tràng tu học tại các tỉnh miền Trung.
Ngày Rằm tháng Tư năm Nhâm Thân, mùa Phật đản PL.2536 (1992) Đức Cố Đại Lão Hoà thượng Bổn sư hoá duyên ký tất, đoan ngự liên đài, Hoà thượng trở về chốn Tổ cư tang và đến năm 1994 thì Đại trùng tu Tổ đình Trúc Lâm.

Ngoài ra, Cố Hoà thượng đã có nhiều lần đi chiêm bái các Phật tích ở nước ngoài như: Ấn Độ, Trung Quốc,… và tham dự các khoá lễ Cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì đại nghĩa dân tộc được tổ chức tại Liên Bang Nga.

Vào ngày Mùng 3 tháng 10 năm Mậu Tuất [nhằm 09/11/2018], Nhân dịp Lễ kỷ niệm huý nhật lần thứ 82 (1936-2018) Đức Tổ sư Khai sơn Tổ đình Trúc Lâm, Tông môn Pháp phái Trúc Lâm đã tổ chức phiên họp và hoàn toàn nhất trí cung thỉnh Hoà thượng lên ngôi vị Phương Trượng Tổ đình Trúc Lâm và cung cử Hoà thượng Thích Lưu Hoà lên ngôi vị trú trì Tổ đình Trúc Lâm, để làm bậc thầy hướng dẫn Thiền quy, là bậc tùng lâm cho đàn hậu học nương theo Đạo phong của chư Tổ, duy trì phát triển nghiệp Tổ. Kể từ đó, nhị vị Hoà thượng đã đồng tâm hiệp lực để hướng dẫn Tăng chúng tu học và lo toan mọi Phật sự trong chốn Tổ ngày càng xương minh phát triển.

IV. NHỮNG THÁNG NGÀY CUỐI CÙNG
Trong dịp đón Giao thừa mừng Xuân Canh Tý (2020), Đại chúng Trúc Lâm đã vân tập Thiền đường để đảnh lễ khánh tuế lên nhị vị Hoà thượng, trước giờ phút đầu năm, Hoà thượng đã ân cần huấn thị rằng: “Mỗi năm trôi qua, mỗi người được thêm một tuổi, cứ như thế mà cuộc đời chúng ta sẽ tàn phai theo năm tháng, là hàng đệ tử của Đức Phật chúng ta phải hiểu rõ điều này để nỗ lực tinh tấn trên bước đường học đạo, hành đạo mới mong có ngày đạt đạo. Các anh em trong đại chúng phải luôn luôn thực hiện tinh thần lục hoà cộng trụ, biết đoàn kết hoà hợp, thương yêu nhau. Tôi mong những vị lớn cố gắng dìu dắt mấy anh em trẻ ở sau. Vì mình ngoài tình thầy trò ra, tình đồng một Bổn sư ra thì còn có tình ‘Linh Sơn cốt nhục’ nữa nên các anh em cố gắng tu tập, sống với nhau cho thật tình, thật lòng. Mọi Phật sự dầu của Giáo hội hay tại Môn phái, Tổ đình anh em hãy đem nhiệt tâm, thiện ý mà lo toan, phục vụ, phải biết giữ trọn đức tánh khiêm cung, thừa thượng tiếp hạ, có như thế mới mong thành tựu trên bước đường tu, lợi Đạo ích đời.”
Trong lễ kỷ niệm huý nhật Đức Cố Đại lão Hoà thượng Bổn sư vào ngày 14 tháng Tư năm Canh Tý mùa Phật đản PL.2564, Hoà thượng vẫn còn khoẻ mạnh cung tiếp chư vị Tôn túc đến dự lễ và trò chuyện rất hoan hỷ thân mật. Sau đó, Hoà thượng đã đi viếng mộ phần song thân phụ mẫu, dâng hương tưởng niệm tại Từ đường gia tộc. Đến vấn an các bậc Tôn túc Trưởng lão tại một số Tổ đình tự viện, khuyến tấn đàn hậu học và dặn dò một số công việc trong chương trình hậu sự của Cố Hoà thượng.
Thế rồi: “Sinh như thể đắp chăn bông
 Tử như cởi áo hạ nồng khác chi
 Xưa nay các pháp hữu vi
 Không sao tránh khỏi biệt ly vô thường.”

Dòng thời gian dần trôi, nhật nguyệt đắp đổi, bước chân Hoà thượng ngày càng mệt mỏi, thân tứ đại hiện lý vô thường.
Sau thời gian lâm bệnh, mặc dầu đã được sự tận tình lo lắng săn sóc của Hoà thượng Trú trì và Tăng chúng Tổ đình Trúc Lâm cũng như sự nhiệt tâm chữa trị của quý vị Y Bác sĩ nhưng do tuổi cao sức yếu, Hoà thượng đã thuận thế vô thường thâu thần viên tịch đúng vào lúc 11giờ 45 phút ngày 28 Tháng Tư Nhuận năm Canh Tý (nhằm ngày 19.06.2020), trong tiếng trợ niệm của Chư tôn Thiền đức Tăng ni trong Môn phái Tây Thiên, chư Tăng tại Tổ đình Trúc Lâm, môn đồ thế quyến và thiện nam tín nữ Phật tử, trụ thế 80 năm, 55 Hạ lạp.
“Ôi thôi! Trưa nay cánh hạc lưng trời
Đón người sứ giả lên đường hồi hương
Tổ đình chuông điểm sầu vương
Môn đồ Pháp quyến hoa hương lệ thầm.”

Thế là từ đây Cố Hoà thượng đã từ bỏ huyễn thân trong cảnh hồng trần, đi vào cõi Tây phương Tịnh Độ bất diệt bất sanh Nê Hoàn nhập diệu. Cố Hoà thượng đã đi thật xa, nhẹ gót hài về nơi vô trụ. Tổ đình Trúc Lâm Đại Thánh ngày ngày chuông mõ sớm chiều vẫn còn đó, chốn Tổ Tây Thiên, Đức liệt Tổ rạng ngời ý đạo vẫn còn đây, đồng môn Pháp lữ, đệ huynh Pháp phái, môn nhơn thế quyến đang quy tụ về đạo tràng thế mà Cố Hoà thượng đã từ giã tất cả, để ra đi về miền Tịch tịnh. Hơn 60 năm tu tập hành Đạo, Hoà thượng suốt một đời dấn thân cho sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, giáo dục cho hậu thế không ngưng nghỉ, với đức hạnh khiêm cung, Ngài luôn hoà nhã gần gũi với Tăng ni Phật tử. Hoà thượng viên tịch, Phật giáo nước nhà mất đi một bậc tùng lâm. Ngôi Tổ đình Trúc Lâm mất đi một người Pháp huynh, một bậc Giáo thọ ân cần và Tăng ni Phật tử mất đi một bậc Thầy khả kính. Bảo Tháp của Trưởng lão Hoà thượng được tôn trí trong khuôn viên Tổ đình Trúc Lâm Huế./.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10404)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18984)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7759)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6575)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6051)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6617)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7207)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 7023)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11348)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6364)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]