Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thầy vẫn bên con trên những nẻo đường

11/04/202018:38(Xem: 5072)
Thầy vẫn bên con trên những nẻo đường

ht thich dong chon-30

Thầy vẫn bên con
trên những nẻo đường


Theo lẽ “tùy thế đế lưu bố tưởng” (hành xử thuận theo lệ thường của thế gian!), con phải cung kính gọi Người bằng danh xưng “Hòa thượng”, “Ông ngài”, nhưng mà, thôi thì, xin Người cho phép con vẫn như xưa, gọi Người là “Thầy” được không ạ? Con biết ngay mà, Thầy sẽ cười, vừa nghiêm vừa hiền, đáp: “Ừ! Bây bày vẽ, chớ Thầy đâu có biểu bây gọi Thầy bằng mấy cái từ hoa mỹ đó đâu!”.

Thoáng cái, vậy mà huynh đệ chúng con xa vòng tay bảo bọc của Thầy, của xứ “Nẫu” thân yêu đã ngót nghét gần hai thập kỷ. Thời gian, không gian có là gì qua lăng kính của bậc giác ngộ, vì “vạn pháp như huyễn”, nhưng qua con mắt phàm phu của con, vẫn thấy sao mà nghiệt ngã đến nao lòng! Thật là “thoắt trông lại đã một dòng tiêu dao!”.

Tốt nghiệp Trung cấp rồi, huynh đệ chúng con mỗi người mỗi nẻo, kẻ du học phương xa, mong rạng danh Thầy Tổ; người ứng phó đạo tràng, nguyện hoằng hóa một phương,… Hành trang chúng con mang theo là những lời dạy, những kỳ vọng, tin yêu mà quý Ngài đã gói ghém, chuẩn bị cho huynh đệ chúng con trong suốt 4 năm được tu học tại Nguyên Thiều.

Đã bao lâu rồi, con chưa về thăm lại. Chỉ nhớ là, ngày con từ Huế về, được Sư cô Đồng Ân, vị đồng học thuở trước, dắt về Bình An đảnh lễ hầu thăm Thầy, Thầy vẫn vậy, ngồi đó, ung dung tĩnh tại, vừa nghiêm, vừa hiền. Đặt nhẹ quyển sách đang đọc dở dang lên bàn, Thầy mỉm cười, hỏi:

– Bây khỏe không? Lâu nay sao rồi?

Làm con nhớ tới câu thơ của ai đó:

Người ngồi đó, vững vàng như Hy-mã

Dẫu đất trời đang cuồn cuộn phong ba.

Vậy mà, chỉ một lát thôi, sau khi nghe con thưa:

– Dạ, thỉnh thoảng con phiền vì cái lưng hơi đau ạ!

Ngọn “Hy-mã” của con đã cho con “thị phạm” một hình ảnh bình dị đến bất ngờ. Con nhớ như in, cảnh Thầy ngồi trên băng ghế dài, bên cạnh là chiếc bồ đoàn sờn cũ, Thầy cuộn tròn người lại, ngả lưng xuống, uốn lưng lên… để chỉ cho đứa học trò cái cách trị đau lưng theo truyền thống mà Thầy thường luyện tập:

– Con tập như dzầy, như dzầy nè, đỡ lắm đó!

Thầy của chúng con tuy uy nghiêm, nhưng vẫn luôn gần gũi như thế, dung dị như thế.

…Nhớ lại cái thuở còn là học Ni ngây ngô của thời Trung cấp, thuở mới tập tành con chữ Thánh hiền, Thầy hơi nghiêm, nên Ni sinh chúng con sợ Thầy một phép. Học kỳ I của năm thứ nhất, Thầy phụ trách môn kinh Bách dụ. Vừa đặt chân lên bục giảng, Thầy chẳng nói chẳng rằng, dẫn chúng niệm Phật ba câu, xong là cầm cục phấn viết “xoẹt, xoẹt, xoẹt” một bảng chữ Nho chi chít. Chúng con nhìn tối mắt tối mũi, viết theo không kịp, mà cũng chẳng dám hó hé kêu than gì. Lúc ấy, tuy cũng có bộ môn Hán cổ do vị khác phụ trách, nhưng vì căn cơ chậm lụt, mỗi tiết, chúng con chỉ học được khoảng vài bộ, nên trình độ của hầu hết Ni sinh khi ấy vẫn chưa thông 214 bộ thủ chữ Hán.

Sau một hồi, Thầy nhìn xuống, thấy tụi nhỏ đứa thì mặt mày ngẩn ngơ, đứa thì bặm môi bặm miệng ráng “vẽ” chữ ra giấy,… Thầy đành tùy thuận theo căn cơ học trò, chừa một phần ba cái bảng ra để dạy thêm cho chúng con về “nhất, cổn, chủ, triệt,…” là những nét cơ bản nhất trong chương trình Hán cổ. Đã không rầy thì chớ, Thầy còn nhẫn nại an ủi:

– Thôi, quý vị cứ chịu khó học, riết rồi sẽ quen!

Thuở ấy, sau khi dạy xong một câu chuyện trong kinh Bách dụ, Thầy thường kết luận bằng một câu gọn ghẽ:

– Ngu gì mà ngu dữ!

Dừng một lúc, Thầy lại tiếp:

– Mấy câu chuyện này là Phật Tổ đang quở mình chớ ai, mà nói trắng ra, mình còn ngu hơn vậy nữa đó!

Những lời này đã trở thành câu nói “kinh điển” của Thầy.

Thầy cho điểm rất “gắt”, dường như suốt bao năm, điểm mà Thầy dành cho các bài kiểm tra của Ni chúng vẫn chỉ vỏn vẹn trong hai con số: 5 và 6! Ai mà nhận được điểm 7 của Thầy thì coi như là hạng “ưu tú” lắm rồi. Thuở ấy, con là đứa học trò nhỏ nhất khóa, lại thường xuyên được Thầy kêu đứng lên đọc bài, mà đọc chữ Hán cơ đấy! Hễ tiết học nào có ba vị được gọi lên đọc bài, thì y như rằng con sẽ là một trong số đó. Con rất dốt, chữ nghĩa không rành nên cứ bập ba bập bõm. Vậy mà có hôm nọ, con vắng học, Thầy bước vào lớp và như một thói quen, Thầy gọi tên con đứng lên đọc bài. Cả lớp ngẩn ngơ,… và từ đó, con được Ni chúng gắn cho mỹ hiệu “học trò ruột” của Thầy. Dạo ấy, nghe quý Cô ghẹo vậy, tuy ngoài mặt luôn từ chối không dám mạo nhận, nhưng trong lòng đứa học trò nhỏ thì vẫn âm thầm… khoái chí! Sau này lớn lên một chút, mới ngẫm ra: Con được Thầy gọi đọc bài mãi như thế, là do lòng Thầy bao dung, thấy đứa nhỏ này căn cơ quá chậm lụt, cần gọt dũa cho nó sáng ra được chút nào hay chút ấy, chứ Thầy là bậc mô phạm “Hữu giáo vô loại”, luôn tận tụy truyền trao không phân biệt, thì làm gì có tâm niệm… học trò ruột với học trò da!

Điều mà huynh đệ chúng con cảm nhận được nơi bậc Thầy của mình là sự chân chất, mộc mạc, giản dị, từ lối hành xử khi đối người tiếp vật, cho đến lời ăn tiếng nói, ấy vậy mà mỗi lời Thầy truyền trao đều khiến người nghe ghi nhớ mãi không quên. Hôm nọ, trong tiết học Nhị khóa hiệp giải, đang dạy thì Thầy chợt dừng lại, kể một câu chuyện “người thật việc thật”:

– Hôm qua, ở gần chùa có cái thằng đó, leo lên mái nhà tôn để sửa điện, bị điện giựt chết queo, nhìn hổng ra mặt mũi gì hết trơn, chỉ còn thấy một cục đen thùi lùi!

Im lặng một chút, Thầy tiếp:

– Quý vị ráng tu đi nghen, được chút nào hay chút đó. Đời người vô thường, sống chết trong gang tấc!

Rồi Thầy tiếp tục bài giảng của mình.

Tan lớp, cô Huệ Tín chia sẻ với chúng con:

– Nói thiệt chớ…, hổng hiểu sao Thầy mình kể chuyện đơn giản, ngắn gọn vậy mà đi vào tận tâm can!

 Ở cạnh Thầy, bao nhiêu hoa mỹ, bao sự sáo rỗng đều rơi rụng cả. Sự hoa mỹ rơi rụng ngay bên chân Thầy, khi những người học trò phương xa có cơ hội về viếng thăm, được chắp tay hầu Thầy, được ngắm Thầy trong chiếc áo cộc bạc màu, với đôi dép sờn cũ…

Sau này, khi có duyên được học sâu về các kinh điển Đại thừa, chúng con càng thấm thía lời Phật dạy: “Trực tâm thị đạo tràng!”. Cảnh giới bất tư nghì, với pháp môn bất nhị trong kinh Duy-ma; tinh thần “đá gật đầu” ghi nhận “tình dữ vô tình đồng thành Phật đạo” trong kinh Đại bát Niết-bàn; pháp giới trùng trùng duyên khởi, một trong tất cả, tất cả trong một của kinh Hoa nghiêm; chỉ chân tâm, hiển căn tánh, cảnh tỉnh hàng cuồng tuệ của kinh Lăng nghiêm;… cho đến tinh thần tam tế lục thô trong luận Đại thừa khởi tín, ngũ trùng duy thức quán trong Duy thức nghĩa lâm, bát bất trong Trung luận… mà cốt tủy của tất thảy những kinh luận này đều không ngoài việc xiển dương về cách thức dụng công, hoặc tự thể hội Phật tánh, trực tâm, chân tâm! Mà trực tâm, bạch mộc, chất phác,… chúng con đã hữu duyên được Thầy rèn luyện, hun đúc cho tự thuở nào.

Sau khi rời vòng tay bảo bọc của Thầy, suốt mười mấy năm bôn ba cầu học, chúng con được Tam bảo gia hộ, đã được đảnh lễ, thọ giáo với những bậc Thầy mô phạm khả kính khác, trong nước cũng như ngoài nước. Khi thọ học với quý Ngài, chúng con vẫn thường thấy ảnh hiện đâu đó hình bóng chân chất, giản dị, bao dung của Thầy. Dù có đi đâu về đâu, chúng con vẫn ghi nhớ rằng: Hôm nay, có được phước duyên tu học bên thầy hiền, bạn tốt, cũng là nhờ hành trang mà Thầy đã gói ghém, chuẩn bị kỹ lưỡng cho chúng con từ thuở ban sơ: Mộc mạc, chất phác, giản dị, bao dung!

Thưa Thầy! Chúng con nói nhiều quá lại thành sáo rỗng, điều Thầy muốn chúng con ghi nhớ và thực hành vẫn là:

– Cố gắng đừng làm sai lệch với những gì mình đã học, đã hiểu nhen con!

Kính lạy Thầy! Với đứa “chướng thâm huệ thiển” như con, hiểu là một chuyện, nhưng làm được hay không lại là một chuyện. Thú thật, trong con vẫn còn một bụng đầy nhóc tham sân si, thì tránh sao cho khỏi khi đối duyên xúc cảnh, trong hành xử vẫn luôn trái, hoặc lệch lời Phật, lời Tổ, lời Thầy đã dạy?

Thiên hạ nhắm mắt chiêm bao đã đành, đứa học trò nhỏ của Thầy rõ ràng… “mở mắt vẫn chiêm bao”! Con hổ thẹn, ưu tư, nhưng không sợ hãi, bất an, bởi hành trang của con, cạnh con, vẫn có hình bóng và những lời dạy của Thầy, của các bậc Minh sư!

Giữa buổi trưa nồng, chúng con nhận được tin báo Thầy đã viên tịch, đã xả bỏ báo thân, an tường về nẻo vô tung, nhưng… Thầy đâu có đi đâu đâu, Thầy vẫn còn đó, vẫn đồng hành cùng chúng con trên mọi nẻo đường, phải không, thưa Thầy?

Kìa! Thầy đang mỉm cười với chúng con!…

Tịnh thất Hoằng Nguyện, ngày 18 tháng 3 năm Canh Tý

Con: TN.Nam Kha

(Cựu Ni sinh khóa 3, trường TCPH Bình Định)

Thành kính đảnh lễ Thầy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 9900)
Hòa Thượng Thích Tắc Thành - Trình bày: Chiếu Quang và Hoàng Lan
10/04/2013(Xem: 7093)
Hòa thượng thế danh Võ Văn Nghiêm, pháp danh Giác Trang, hiệu Hải Tràng thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông, đời thứ 41, sinh năm Giáp Thân (1884) tại làng Tân Quí, tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn. Thân phụ là cụ ông Võ Văn Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tín. Ngài sinh trưởng trong một gia đình tín ngưỡng Tam Bảo thuần thành. Thân phụ Ngài là một vị hương chức trong làng, lúc tuổi ngũ tuần xin từ chức để xuất gia hiệu là Thanh Châu, đến 75 tuổi được phong Giáo thọ, sáng lập chùa Vạn Phước tại làng Tân Chánh, huyện Hốc Môn, Sài gòn. Ngài có hai anh em trai, người anh cả xuất gia được tấn phong Hòa thượng, hiệu Chơn Không.
10/04/2013(Xem: 5843)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
10/04/2013(Xem: 6919)
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh thuộc dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú-Nhuận, Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðéc miền Nam nước Việt (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp), sinh Năm Ất Hợi (1935) Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 20. Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu đều kính tin Tam Bảo.
10/04/2013(Xem: 10531)
H.T. Thích Nhật Minh hiệu Vĩnh Xuyên thuộc dòng Phi Lai đời thứ 41, sau cầu pháp với Thiên Thai Thiền Giáo Tông được ban pháp tự Nguyên Quang, thế danh là Đặng Ngọc Hiền, sinh năm Kỷ Sửu (1949) tại xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Thân phụ là Cụ ông Nguyễn Văn Tá, Thân mẫu là Cụ Trần Thị Ngọc Anh, Hòa Thượng là con út trong gia đình có bốn anh em, mới hơn một tháng tuổi Hòa Thượng đã phải mồ côi mẹ nên được gửi cho Cô ruột là Cụ bà Nguyễn Thị Đền pháp danh Tâm Đền tự Diệu Hoà.....
10/04/2013(Xem: 6787)
Hòa Thượng húy Lê Thùy, pháp danh Thị Năng, tự Trí Hữu, hiệu Thích Hương Sơn, sinh năm Quí Sửu (1912) tại làng Quá Giáng, huyện Điện Bàn (Hòa Vang) tỉnh Quảng Nam trong một gia đình Nho học và tin Phật. Thân phụ: Lê Cát, Thân Mẫu: Kiều Thị Đính, có mười hai người con; Ngài là con thứ bảy trong gia đình.
10/04/2013(Xem: 8703)
Đại lão Hòa Thượng THÍCH HUỆ QUANG, húy thượng Không hạ Hành, tự Từ Tâm, hiệu Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10 tháng 01 năm Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.
10/04/2013(Xem: 8775)
Tổ đình Từ Hiếu và Môn đồ Pháp quyến vô cùng kính tiếc báo tin: Hòa thượng húy thượng TRỪNG hạ HUỆ hiệu CHÍ MẬU, trú trì Tổ đình Từ Hiếu - thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế,
10/04/2013(Xem: 9894)
Hòa Thượng thế danh Nguyễn Xuân Đệ,sinh ngày 20-10-1930,thân phụ của ngài là cụ ông Nguyễn Nhạc P.D Như Thiện, thân mẫu của ngài là cụ bà Huỳnh Thị Hoài P.D Thị Lân, Ông Bà có ba người con : hai người con gái và ngài là người con trai duy nhất.
10/04/2013(Xem: 12604)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]