Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiện Niệm Về Sư Phụ

14/02/202003:15(Xem: 3146)
Thiện Niệm Về Sư Phụ


Ht Giac Chanh-1947-2020

THIỆN NIỆM VỀ SƯ PHỤ


Mọi người thường dành cho người từ trần những điều tốt đẹp nhất như có thể. Nơi phương xa, con dành những giây phút an tịnh trong thiền để kính dâng Sư Phụ.

Chỉ đến một sớm mai nhận tin “Hoà thượng Giác Chánh đêm rồi viên tịch”, lần đầu tiên con ứng lên 2 tiếng gọi Ngài là “Sư Phụ”, biết đâu tạo ra kỳ tích Ngài bất ngờ nghe âm thanh lạ mà bật thân ngồi dậy cười nói với mọi người.

Bao chục năm qua là thầy trò trong Pháp, một thời gian dài từng làm thị giả thân cận, con vẫn quen gọi Ngài là Sư Trưởng, bây giờ gọi 2 tiếng Sư Phụ mới cảm nhận hết tính trọng đại, hơn nữa, thiêng liêng của mối quan hệ thầy trò đồng môn tiến tu Phật đạo.

Thuở con mới trốn cha mẹ đi tu, Thầy tiếp dẫn là cố Hoà thượng Giác Tâm đã dẫn con vào chùa Thiền Quang I bái kiến Hoà thượng Thiện Pháp, sau đó đến giới thiệu với “Đại Sư huynh Giác Chánh” tại lễ tang bà Đại Tín, huyện Long Thành. Không ngờ từ cuộc hội ngộ đó, con có duyên làm đệ tử Sư Phụ.

Có lần con rời khỏi chùa Siêu Lý, Vĩnh Long vì muốn đi vượt biên. Chuyến đi không thành nên âm thầm đến ẩn dật tu thiền ở chùa Bồ Đề, Núi Lớn, Vũng Tàu với cố Hoà thượng Giác Tâm. Thời đó không có cellphone, việc thông tin liên lạc rất khó khăn. Sư Giác Nguyên chắc chưa quên nguồn cơn cảm tác bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Bạn Ở Đâu”:

“Trí Quảng bây giờ ở nơi đâu,
Biển cả, núi đồi, hay rừng sâu,
Chí lớn có còn hay đã mất,
Bè bạn còn đây có nhớ nhau?”

Lâu ngày không biết tin tức đệ tử, Sư Phụ nhờ cô Bảy Vĩnh Phúc và cô Mai: “Quý cô thử giúp dò la, tìm kiếm xem ông Trí Quảng ở chỗ nào, đưa về chùa Bửu Đức ở với Sư”. Nghe tường thuật như vậy, con nhận ra một điều: dù bận rộn nhiều Phật sự, lòng Sư Phụ không thiếu vắng tình thương đệ tử và trách nhiệm của một ông Thầy.

Theo lời Cố Hoà thượng Giác Tâm khuyên, con đã thu xếp về chùa Bửu Đức phụ anh Đắc làm thị giả chăm sóc sức khoẻ Sư Phụ, nên biết Ngài thường đau nhức cơ thể. Đôi lúc phải nhẹ đi trên lưng cho Ngài giãn gân cốt giảm đau nhức. Ngược lại, Sư Phụ giúp con giải nghi đạo lý, được nghe giảng dạy thêm về một số nội dung trong Tạng Vi Diệu Pháp, chỉ điểm cách dùng hiện lượng trí và tỷ lượng trí theo Nhân Minh học để nhận thức chỗ đúng sai trong phương pháp biện luận Lập và Phá nhằm tự ngộ và ngộ tha.

Ngôi chùa Bửu Đức dần dà thêm đông vui vì có Sư Chánh Nghiệp, Sư Trí Tịnh, Sư Giác Nguyên, Sư Chánh Minh lần lượt đến nhập hạ và thay nhau dạy giáo lý cho Phật tử địa phương. Sư Trí Tịnh và con từng chia sẻ một kỷ niệm khó quên, đó là những ngày theo Sư Phụ lên sân thượng chùa Bửu Đức, được nghe dạy cách thuyết giảng nhập đề lung khởi, hoặc trực khởi, và khắc phục khuyết điểm khi thuyết giảng trước công chúng.

Tánh tình con trầm lặng, không phải mẫu người hoạt ngôn, tuy nhiên, những kiến thức, kinh nghiệm Sư Phụ truyền trao, hướng dẫn vẫn là hành trang quý báu trên bước đường hoằng pháp lợi sanh.

Thời gian sau, Sư Giác Nguyên và con vào Sài Gòn học lớp Báo Chí. Sư Phụ tỏ vẻ mừng thấy báo Giác Ngộ đưa tin trong số thí sinh thi đậu vào trường Cao Cấp Phật Học Vạn Hạnh khoá III có tên con bên cạnh một loạt các vị Tăng trẻ như Sư Bửu Hiền, Sư Giác Nguyên, Sư Thiện Minh, Sư Chánh Định, Sư Tuệ Quyền, Sư Tường Quang, Sư Huệ Đức, Sư Chánh Kiến, Sư Tuệ Dũng, Sư Quách Thành Satha...Sư Phụ căn dặn:

“Cố gắng học xong rồi về đây, sau này tôi giao chùa Bửu Đức cho ông lo”.

Sư Phụ có nhiều Sư cháu và đệ tử khác để chọn nhân vật kế thừa xứng đáng, con chưa bao giờ mong đợi thừa tự chùa chiền từ Sư Phụ. Bất ngờ nghe nói vậy, con nhận thêm tình thương và hy vọng của một bậc thầy, nhưng chỉ cười xuề xoà qua chuyện. Con không muốn Sư Phụ đặt kỳ vọng nơi một đệ tử để rồi thất vọng, bởi lòng vấn vương hoài bão du phương nhẹ nhàng như mây gió trong khung trời tự do.

Và con thật sự càng lúc càng rời xa Sư Phụ. Đến Ấn Độ du học, lại tìm đường du phương sang kinh đô Tự Do Hoa Kỳ. Thoắt chốc đã gần 25 năm con rời xa sự bảo bọc của Sư Phụ. Đêm hôm qua, Ni Sư Phước Hội gọi phone, kể rằng:

“Con nghe Sư Trưởng viên tịch. Thương Sư Trưởng quá. Con hồi hướng phước tu tập cho Sư Trưởng. Dạo ở Việt Nam, con và cô bảy Vĩnh Phúc lên chùa Bửu Đức thăm. Sư Trưởng dẫn tụi con ra mảnh đất gần bờ sông, Sư Trưởng khoe vừa tậu được mảnh đất này, để xây trường lớp cho Sư Trí Quảng về dạy học...”

Tấm lòng Sư Phụ nghĩ về đệ tử, mà đệ tử biền biệt phương xa. Bất giác, con liên tưởng đến một câu chuyện quá khứ. Có lần, con thưa:

“Sống gần Sư Trưởng, con cảm nhận có gì thâm tình như máu mủ, ruột thịt”.

Sư phụ cười bảo:

“Sư và ông có thâm tình giống máu, nhưng không giống mủ”.

Câu pha trò dí dỏm đủ sắc bén khiến con tự phản tỉnh hiểu rằng tình cảm thân sơ do duyên mà tụ tán, trong khi đường sinh tử mỗi người đều tự lo. Thâm tình như thế nào thì sau cùng mỗi người vẫn phải tự bước trên đường, không ai bước giùm ai. Là một bậc hiền tăng uyên thâm Phật Pháp, mong Sư Phụ an trú trong thiện pháp, không thất vọng về con, vì con chưa hứa hẹn điều gì.

Đêm hôm qua xem Lễ Trà Ty tường thuật trực tiếp, con cứ gọi thầm 2 tiếng “Sư Phụ”. Kỳ tích đã không xảy ra, Sư Phụ không thể bật thân ngồi dậy cười nói với mọi người..

Hỡi ôi! Làm sao Ngài ngồi dậy được, khi tâm thức đã lìa bỏ hình hài! Thôi đành thuận lẽ vô thường nhìn hình hài tiêu tán sau lễ Trà Tỳ. Nhưng chắc hẳn Sư Phụ còn sống lâu trong tâm trí Pháp lữ, môn đồ hiếu quyến. Sư Phụ và con vẫn tiếp tục gặp nhau trong thiện pháp, như Đức Phật đã dạy:

“Ai sống đời chánh hạnh
Là cúng dường Đức Phật
Bằng cách cao quí nhất
Trong các sự cúng dường…”

Do đó, hàng đệ tử hậu học chúng con tiếp tục mang nếp sống chánh hạnh, trau giồi thiện pháp hằng ngày cúng dường lên Sư Phụ và Đức Phật vậy.

Văn chương, chữ nghĩa, những lời hay đẹp ca tụng, tô điểm một kiếp người rồi cũng nhạt nhoà, phôi phai theo năm tháng. Chỉ có nếp sống chánh hạnh, trau giồi thiện pháp là sự nghiệp của người tu Phật và được truyền thừa dài lâu cho hạnh phúc chúng sanh.

Kính Sư Phụ hoan hỷ sống với chúng con trong từng thiện niệm.

Port Arthur, Texas,
ngày 11/2/2020
Tỳ kheo Trí Quảng.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6433)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9521)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4496)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4344)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6362)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5176)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7658)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6060)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12780)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567