Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Mươi Năm Một Chặng Đường Tu

21/12/201908:36(Xem: 3600)
Bốn Mươi Năm Một Chặng Đường Tu

Phat thuyet phap 7
BỐN MƯƠI NĂM

MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TU

Bài viết của HT Thích Như Điển

 

 

Nếu đời người có tuổi thọ 80 tuổi, thì 40 năm đi xuất gia và hành đạo trong khoảng thời gian lâu như thế; có nghĩa là đã hơn nữa đời người rồi. Bởi lẽ ít nhất cũng từ 8 đến 15, 17 tuổi mới có ý niệm đi xuất gia; ngoại trừ những người khi sinh ra đã có mặt tại chùa bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau thì không kể đến và đa phần là do sự phát tâm xuất gia của chính đương sự; nên mốc thời gian cần thiết để trở thành trưởng tử hay trưởng nữ của Như Lai, phải tính thêm một khoảng thời gian để dự định xuất gia lâu như vậy.

 

Người xuất gia từ thuở nhỏ gọi là đồng chơn nhập đạo và những ai đã lập gia đình rồi mới đi xuất gia thì trong chùa hay gọi là trung niên xuất gia hay bán thế xuất gia. Đức Phật và chư Tổ không phân biệt điều nầy, ngay cả nam hay nữ, bất cứ ai,  khi nào phát tâm, thì người ấy đều có thể tìm đến vị Bổn Sư mà mình đã quy y để trình thưa lên ý nguyện của mình. Nếu không có Bổn Sư thì phải tìm một vị y chỉ sư để nương tựa cho việc xuất gia và thọ giới sau nầy.Nếu tâm nguyện nầy được thành tựu; tức là người ấy sẽ mang vào đạo ý chí xuất trần thượng sĩ để mong cho mình và mọi người thoát ra khỏi chốn tử sinh tục lụy và sẽ dấn thân trên con đường mà các bậc Thánh đã đi; nên được gọi là Đại Trượng Phu.

 

Ni Sư Thích Nữ Giới Hương Trụ Trì chùa Hương Sen tại Perris, Nam California Hoa Kỳ chính là người đã dấn thân vào con đường cao thượng phước báu ấy trong 40 năm qua và năm nay các đệ tử của Ni Sư muốn ghi lại kỷ niệm một chặng đường đã đi qua; nên gom góp bài vở khắp nơi để làm thành một tập kỷ yếu của đời người. Như vậy cũng là một việc làm đáng tán dương; nên tôi đã tùy thuận để thể hiện việc nầy qua bài viết của mình. Ni Sư Giới Hương đã xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm tại Việt Nam từ năm 1979 và đến năm nay 2019 đúng 40 năm. Thời gian những thập niên 1980s ấy phải nói là thời gian lao tâm khổ tứ của các bậc Thầy mô phạm trong chốn thiền môn. Vì lẽ vấn đề khai báo chỗ ở, thường trú hay tạm trú của một tăng ni sinh trong các Phật Học Viện hay những Ni trường không phải là chuyện giản đơn chút nào và trách nhiệm đó thuộc về vị Trụ Trì cai quản ngôi chùa hay tự viện ấy. Từ chuyện đi học nội ngoại điển cho đến việc ăn uống, chấp tác việc chùa thuở ấy chắc ít ai dám hình dung lại được. Vì cái khổ ở ngoài thế gian đã quá nhiều rồi, thì lấy đâu người Phật Tử tại gia có thể hộ trì Tam Bảo một cách dễ dàng như bây giờ được. Do vậy chắc rằng những chùa viện ở Việt Nam thuở ấy cũng phải chịu chung số phận với quần chúng Phật Tử; nên tôi tin rằng việc phấn đấu để xuất gia và tu học trong thời gian 1980s ấy quả là người phải có một ý chí phi thường mới có thể vượt qua được những chướng duyên trở ngại ở trong Đạo cũng như ngoài Đời.

 

Tôi chỉ biết Ni Sư khi tôi sang Ấn Độ để đi hành hương các Thánh Tích tại Bồ Đề Đạo Tràng và những nơi khác. Hầu như chưa được biết riêng lý lịch của từng vị, trước khi họ đến trung tâm tu học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng để gặp tôi. Mục đích chính trong thời gian từ năm 1994 đến năm 2011 của tôi là trợ giúp vấn đề học bỗng cho các Tăng Ni Sinh đang du học tại Ấn Độ. Bởi lẽ tôi đã trải qua thời gian du học tại Nhật Bải từ đầu thập niên 70; nên tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của các Tăng Ni Sinh lúc bấy giờ và tôi trợ giúp như thế không có bất cứ một điều kiện nào hết, miễn sao quý Thầy Cô cố gắng học thành tài, ra trường về lo việc Đạo cho Thầy Tổ mình hay tiếp nối con đường giáo dục cũng như hoằng pháp lợi sanh, là quá đủ rồi. Do vậy suốt trong 19 năm như thế đã có 187 Tăng Ni sinh Việt Nam du học tại Ấn Độ đã đến với tôi. Ban đầu họ nhờ Thượng Tọa Hạnh Chánh giới thiệu; nhưng sau đó vài năm thì họ tự động đến gặp tôi để trình bày nguyện vọng của mình, khi nghe tin tôi sang Ấn Độ để hành thương và gặp gỡ các Tăng Ni sinh tại đó. Trong số nầy có Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Dĩ nhiên là mỗi vị đến với tôi đều xưng Pháp Hiệu và cho biết đệ tử của ai, cần nhu cầu hằng tháng bao nhiêu cũng như đang học ở cấp bậc nào như: cử nhân, cao học hay tiến  sĩ. Để từ đó tôi sẽ nhờ Quý Thầy, Cô giúp tôi thể hiện tinh thần trợ cấp nầy. Ban đầu thì có Thầy Hạnh Chánh và sau đó thì có Thầy Như Tú.  Trong số 187 vị xuất gia ấy, không biết ngày nay còn lại bao nhiêu vị đang tu học, hành trì? Bao nhiêu người đã hoàn tục?Bao nhiêu người đang đứng lớp dạy học trên các bực giảng của Đại Học, Trung Học  ở trong cũng như ngoài nước? hay có bao nhiêu người đã ra đi vì bịnh hoạn hay những nhân duyên khác? Kết quả nầy tôi không có chính xác; nhưng hồ sơ tôi hiện đang lưu giữ ở văn phòng của chùa Viên Giác Hannover là có 132 vị đã ra học vị Tiến Sĩ và những vị còn lại là Cao Học hay cử nhân. Rất tiếc rằng từ năm 2011 tôi không tiếp tục chương trình cấp phát học bỗng nầy nữa, vì lẽ 19 năm trợ giúp như thế cũng là một đoạn đường khá dài rồi. Vả lại tuổi tôi cũng đã lớn; nên dành nhiều thời gian rãnh để dịch kinh, viết sách cũng như giảng pháp đó đây và cũng để cho thế hệ đi sau nối tiếp con đường của mình đã đi; nên tôi đã chấm dứt việc làm nầy kể từ thời điểm ấy.

 

Quý Thầy, Cô khi trình luận án Tiến Sĩ hay Cao Học xong, thường hay gửi tặng tôi một quyển. Do vậy tại trung tâm Tu Học Viên Giác ở Bồ Đề Đạo Tràng cũng như tại thư viện chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi đã lưu giữ lại hầu hết những luận án nầy của Quý Thầy, Cô đã tặng tôi, trong đó có luận án Tiến Sĩ của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Tôi đọc đã lâu và nội dung của luận án Ni Sư đã viết bằng tiếng Anh về “Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions.” Quyển luận án nầy sau được dịch sang tiếng Việt “Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa” và tôi cũng đã có nhân duyên viết lời tựa cho việc xuất bản tiếng Việt ở trong cũng như ngoài nước. Ni Sư Giới Hương là một vị Ni rất thích hoạt động trong vấn đề văn chương, giáo dục, văn hóa, từ thiện giúp đỡ người cơ nhở v.v… nên đã viết, sáng tác và chuyển dịch hơn 40 tác phẩm và nhạc, thơ, văn. Trong đó phải kể đến những quyển như: Ban Mai Xứ Ấn, Vườn Nai-Chiếc Nôi Phật Giáo. Mmời xem tủ sách Bảo Anh Lạc http://www.huongsentemple.com/index.php/kinh-sach/tu-sach-bao-anh-lac. Ai đọc đến các tác phẩm này và khám phá website sẽ nhiều thú vị và cống hiến của Ni sư. Ni Sư cũng đã đi vào trong những nhà tù ở Hoa Kỳ để giúp cho những người đang ở đây thực tập thiền tọa cũng như giảng những bài pháp cho những tù nhân nghe, nhằm cải đổi đời sống tâm linh của họ (mời xem cuốn: Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ). Ngoài ra, Ni Sư cũng đã về lại Việt Nam để giảng dạy tại trường Đại Học Phật Giáo Sài Gòn trong nhiều năm tháng qua, cũng đã gặt hái được nhiều thành quả nhất định qua việc giảng  dạy nầy. Đồng thời Ni Sư cũng thực hiện việc đào tạo chư Ni cho tương lai cũng giống như Sư Phụ Hải Triều Âm của mình đã tế độ cho cả ngàn ni chúng như vậy. Đây chính là cách báo Phật ân đức cùng Thầy Tổ cao cả nhất trong cuộc đời hành đạo của một người xuất gia.

 

Việc học cho có bằng cấp là điều rất cần thiết đối với  người xuất gia trong hiện tại. Bởi lẽ chúng ta đang sống tại ngoại quốc, nếu thiếu kiến thức căn bản về Phậc Học và ngoại ngữ thì không thể nào với tới mục đích của mình là mang đạo vào đời cho những người địa phương; nơi mà mình đang sinh sống được. Đồng thời việc tu càng quan trọng hơn như thế nữa. Bởi lẽ nếu một Tăng Ni Sinh chỉ có bằng cấp, đi diễn giảng quanh năm suốt tháng mà không hành trì, hạ thủ công phu  thì chẳng khác nào là một học giả, giống như bao nhiêu học giả khác đang ở ngoài đời giảng dạy tại các trường Đại Học mà thôi. Cho nên với người xuất gia; nên quan tâm nhiều hơn nữa về vấn đề hành trì nầy và Ni Sư Giới Hương đang thể hiện việc nầy qua việc nuôi dạy chúng cũng như công phu bái sám, thiền tập hằng ngày.Đây chính là nét đẹp của những bậc xuất trần thượng sĩ vậy.Việc giải thóat sanh tử vẫn còn xa trong cuộc sống nầy; nhưng đứng trước sự tử sinh và bao nhiêu tao loạn của cuộc đời mà người xuất gia làm chủ được chính mình, thì đó cũng là một sự giải thoát tương đối trong cuộc đời nầy vậy.

Giáo Sư Tâm Thụy Võ Văn Tường, người nhiếp ảnh nhiều ngôi chùa nhất của Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước đã cho in ấn tác phẩm chùa Việt Nam Hải Ngoại tập I bằng 4 ngôn ngữ: Việt, Anh, Hoa và Nhật ngữ rất có giá trị. Đến quyển thứ II thì Giáo Sư đã nhờ Ni Sư Giới Hương biên tập Anh Văn của tất cả những hạng mục trong hai quyển sách Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples) và Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam).Thượng Tọa Nhật Từ ở Việt Nam và Thượng Tọa Nguyên Tạng ở Úc đã giảo chánh lại trước khi xuất bản. Riêng bản dịch ra Nhật ngữ và Hoa ngữ thì tôi đã đảm nhận việc giảo chánh nầy. Sau đó Cô Thiện Tâm Suzan ở Bosten nhờ tôi giới thiệu Ni Sư Giới Hương dịch một quyển sách Anh Văn của Đức Đạt Lai Lạt Ma “Buddhism: One Teacher Many Traditions” giảng ra Việt ngữ “Phật Giáo-Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống”, Thầy Đạo Tĩnh tại Atlanta giảo chính lại và tôi cố gắng để soát lại cách dịch cũng như ý tưởng của câu văn và những danh từ Phật Học đã được dịch sang Việt ngữ. Ngoài ra, tôi cũng có nhân duyên viết giới thiệu cho Ni sư nhiều sách (tiếng Việt và Anh) khác được xuất bản trong và ngoài nước như Quan Âm Quảng Trần, Nếp sống  Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma, A Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não (2 tập), Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang, Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm, vv…

Do tôi và Ni sư Giới Hương đã có nhiều cơ hội để trao đổi qua lại về phương diện dịch thuật va viết lách nầy; nên tôi thấy rằng: văn phong của Ni Sư viết hay dịch rất trong sáng, dễ hiểu, có ý tưởng sáng tạo mới, dầu cho đó là Trung Quán Luận hay Tánh Không, dầu viết bằng tiếng Anh hay tiếng Việt. Do vậy, nhiều khi tôi nghĩ rằng Việt Nam chúng ta đã có những bậc Ni Lưu tiền bối như Ni Trưởng Thích Nữ Như Thanh, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải v.v… thì nay Phật Giáo Việt Nam tại ngoại quốc đã đương và sẽ có thêm những bậc Ni Lưu như Ni Sư Thích Nữ Giới Hương thì chắc rằng những người xuất gia nữ nói riêng và nói chung là Phật Tử Việt Nam sẽ được nhờ.

Viết để khuyến khích và trợ duyên cho cuốn sánh “40 Năm Tu Học Và Hoằng Pháp của Ni Sư Giới Hương” như thế nầy, tôi thấy là việc làm rất cần thiết, vì lẽ khi tác giả cho ra đời một tác phẩm nào đó mà độc giả lơ là, chẳng quan tâm thì cũng phụ ân người đã có tấm lòng cho Đạo, muốn trang trải hạt giống từ bi và trí tuệ của mình cho Đời và cho Đạo; khiến cho người chủ trương nhiều khi cũng tiến thóai lưỡng nan. Do vậy, tôi viết những lời nầy trang trọng gửi đến Ni Sư Giới Hương để kỷ niệm 40 năm xuất gia hành đạo của mình cũng là trực và gián tiếp tùy hỷ những việc làm của Ni Sư lâu nay vậy, đồng thời tôi cũng mong rằng có nhiều bậc Ni Sư lỗi lạc khác cũng nên đóng góp phần mình vào ngôi nhà Phật Giáo chung nầy. Có như thế văn hóa, văn học, văn chương cũng như tư tưởng Phật Học mới có thể dễ dàng đi vào lòng người hơn.

 

Xin nguyện cầu cho Ni Sư trong những ngày còn lại trong cuộc đời nầy có thể là 20 năm, 30 năm hay 40 năm sau nữa Ni Sư vẫn còn sáng tác, giảng dạy nhiều hơn nữa, thì người xuất gia cũng như tại gia sẽ không bao giờ quên hình ảnh cũa Ni Sư trong thế giới nầy.

 

Viết xong vào ngày 18 tháng 11 năm 2019

tại Tu Viện Viên Đức, thuộc miền Nam nước Đức,

Thích Như Điển

chuaviengiac2020@gmail.com 

 

 ht nhu dien (1)

Hòa Thượng ban pháp thoại tại sân trước Chùa Hương Sen

ht nhu dien (2)
                  Trì Tụng Thần chú Lăng Nghiêm
 
ht nhu dien (3)
Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác
Cùng tăng đoàn viếng thăm Chùa Hương sen ngày 12/04/2018
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 4823)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 4733)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
30/12/2010(Xem: 4653)
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế.
27/12/2010(Xem: 5352)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử sống cùng bà trong những năm gần đây. Tôi, năm mươi sáu tuổi, nhưng lại là đệ tử mới nhất của bà, mà lại là nam đệ tử. Tôi ở với một nhóm nhỏ đệ tử người Tây phương chỉ mới được mười năm nay, trong khi người nữ đệ tử trẻ tuổi nhất cũng đã có mười lăm năm theo học với bà. Do vị thế ưu tiên của việc “sống lâu lên lão làng” trong tăng đoàn nhỏ bé của chúng tôi, mà các vị nữ đệ tử trẻ này tha hồ chế ngạo cái đầu không tóc, và việc gia nhập tăng chúng muộn màng của tôi. Tôi không màng điều đó chút nào, vì từ những ngày đầu, tôi đã rất hạnh phúc được thân cận “roshi” của tôi, với lòng tin tưởng rằng sự gần gủi, tiếp xúc hằng ngày với bà có thể giúp tôi đi đến ngưỡng cửa tiếp cận tâm linh, nơi ma
24/12/2010(Xem: 7245)
Đại lễ đặt dưới sự chứng minh tối cao của: Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu, Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh GHPG Việt Nam, trú trì Tổ đình Tường Vân – Huế, Trưởng lão Hòa thượng Thích khả Tấn, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPG Việt Nam, Giáo phẩm chứng minh BTS GHPG tỉnh Thừa Thiên – Huế, Giáo phẩm chứng minh Môn phái tổ đình Tây Thiên – Huế, trú trì chùa Giác Lâm – Huế. Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương, Phó chủ tịch HĐTS Trung ương GHPG Việt Nam, Trưởng ban Trị sự GHPG tỉnh Thừa Thiên – Huế, trú trì Diệu Đế quốc tự, Lam Sơn và Tra Am – Huế. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPG Việt Nam, Ủy viên thường Trực HĐTS Trung ương GHPG Việt Nam, Trưởng ban Hướng dẫn nam nữ cư sĩ Phật tử trung ương, Trưởng ban Trị sự GHPG tỉnh Quảng Nam, trú trì chùa Đạo Nguyên Tam Kỳ - Quảng Nam. Chư tôn đức trong thường trực BTS GHPG tỉnh Thừa Thiên – Huế, chư tôn đức đại diện các môn phái Tổ đình trong tỉnh Thừa Thiên – Huế, chư tôn đức trú trì các
24/12/2010(Xem: 4224)
Niên Biểu Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký, Xử lý Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đệ Tam Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
24/12/2010(Xem: 6725)
Được sự hoan hỷ chấp thuận của Ban Trị Sự Phật Giáo Tỉnh, sự quan tâm giúp đỡ mọi mặt của quý cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền và mặt trận, Ban Hướng Dẫn Phật Tử Tỉnh Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức Hội Thảo Hướng Dẫn Phật Tử và Đại Lễ Trai Đàn Truy Niệm Tiền Hậu Công Đức, Sáng Lập Hội Viên, Khuôn Trưởng, Trưởng Ban Hộ Tự, Hội Viên Thiện Nam Tín Nữ, Cư Sĩ Phật Tử, Gia Trưởng, Huynh Trưởng, Đoàn Sinh Gia Đình Phật tử trong tỉnh Thừa Thiên Huế và tưởng niệm Cầu Siêu quá cố Chư vị huynh trưởng nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Trước hết, thay mặt Ban Hướng Dẫn Phật Tử tỉnh và Ban Tổ Chức Đại lễ chúng con thành kính đảnh lễ niệm ân Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni. Kính lời chào mừng nồng nhiệt đến chư vị quý khách lãnh đạo các cấp, quý vị nhân sĩ trí thức và toàn thể đồng bào Phật tử các giới. Cung chúc Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Tôn Đức Tăng Ni thế tuế thọ t
19/12/2010(Xem: 9919)
Phật Giáo và A-dục Vương. K. R. Norman (Nguyên Tâm dịch) Hoàng đế Asoka, Con người của hòa bình và tình nhân bản. Minh Chi Đại đế Asoka và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Thích Quảng Đại Đại đế Asoka Maurya và những pháp dụ khắc trên đá Trần Trúc-Lâm Hoàng đế Asoka giã từ chinh chiến với nỗi thống khổ của người thắng trận. Trần Hương Lan Trường ca Kalinga. Trúc Thiê
19/12/2010(Xem: 14501)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
18/12/2010(Xem: 14874)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minh và dịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567