Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Mươi Năm Một Chặng Đường Tu

21/12/201908:36(Xem: 3530)
Bốn Mươi Năm Một Chặng Đường Tu

Phat thuyet phap 7
BỐN MƯƠI NĂM

MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TU

Bài viết của HT Thích Như Điển

 

 

Nếu đời người có tuổi thọ 80 tuổi, thì 40 năm đi xuất gia và hành đạo trong khoảng thời gian lâu như thế; có nghĩa là đã hơn nữa đời người rồi. Bởi lẽ ít nhất cũng từ 8 đến 15, 17 tuổi mới có ý niệm đi xuất gia; ngoại trừ những người khi sinh ra đã có mặt tại chùa bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau thì không kể đến và đa phần là do sự phát tâm xuất gia của chính đương sự; nên mốc thời gian cần thiết để trở thành trưởng tử hay trưởng nữ của Như Lai, phải tính thêm một khoảng thời gian để dự định xuất gia lâu như vậy.

 

Người xuất gia từ thuở nhỏ gọi là đồng chơn nhập đạo và những ai đã lập gia đình rồi mới đi xuất gia thì trong chùa hay gọi là trung niên xuất gia hay bán thế xuất gia. Đức Phật và chư Tổ không phân biệt điều nầy, ngay cả nam hay nữ, bất cứ ai,  khi nào phát tâm, thì người ấy đều có thể tìm đến vị Bổn Sư mà mình đã quy y để trình thưa lên ý nguyện của mình. Nếu không có Bổn Sư thì phải tìm một vị y chỉ sư để nương tựa cho việc xuất gia và thọ giới sau nầy.Nếu tâm nguyện nầy được thành tựu; tức là người ấy sẽ mang vào đạo ý chí xuất trần thượng sĩ để mong cho mình và mọi người thoát ra khỏi chốn tử sinh tục lụy và sẽ dấn thân trên con đường mà các bậc Thánh đã đi; nên được gọi là Đại Trượng Phu.

 

Ni Sư Thích Nữ Giới Hương Trụ Trì chùa Hương Sen tại Perris, Nam California Hoa Kỳ chính là người đã dấn thân vào con đường cao thượng phước báu ấy trong 40 năm qua và năm nay các đệ tử của Ni Sư muốn ghi lại kỷ niệm một chặng đường đã đi qua; nên gom góp bài vở khắp nơi để làm thành một tập kỷ yếu của đời người. Như vậy cũng là một việc làm đáng tán dương; nên tôi đã tùy thuận để thể hiện việc nầy qua bài viết của mình. Ni Sư Giới Hương đã xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm tại Việt Nam từ năm 1979 và đến năm nay 2019 đúng 40 năm. Thời gian những thập niên 1980s ấy phải nói là thời gian lao tâm khổ tứ của các bậc Thầy mô phạm trong chốn thiền môn. Vì lẽ vấn đề khai báo chỗ ở, thường trú hay tạm trú của một tăng ni sinh trong các Phật Học Viện hay những Ni trường không phải là chuyện giản đơn chút nào và trách nhiệm đó thuộc về vị Trụ Trì cai quản ngôi chùa hay tự viện ấy. Từ chuyện đi học nội ngoại điển cho đến việc ăn uống, chấp tác việc chùa thuở ấy chắc ít ai dám hình dung lại được. Vì cái khổ ở ngoài thế gian đã quá nhiều rồi, thì lấy đâu người Phật Tử tại gia có thể hộ trì Tam Bảo một cách dễ dàng như bây giờ được. Do vậy chắc rằng những chùa viện ở Việt Nam thuở ấy cũng phải chịu chung số phận với quần chúng Phật Tử; nên tôi tin rằng việc phấn đấu để xuất gia và tu học trong thời gian 1980s ấy quả là người phải có một ý chí phi thường mới có thể vượt qua được những chướng duyên trở ngại ở trong Đạo cũng như ngoài Đời.

 

Tôi chỉ biết Ni Sư khi tôi sang Ấn Độ để đi hành hương các Thánh Tích tại Bồ Đề Đạo Tràng và những nơi khác. Hầu như chưa được biết riêng lý lịch của từng vị, trước khi họ đến trung tâm tu học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng để gặp tôi. Mục đích chính trong thời gian từ năm 1994 đến năm 2011 của tôi là trợ giúp vấn đề học bỗng cho các Tăng Ni Sinh đang du học tại Ấn Độ. Bởi lẽ tôi đã trải qua thời gian du học tại Nhật Bải từ đầu thập niên 70; nên tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của các Tăng Ni Sinh lúc bấy giờ và tôi trợ giúp như thế không có bất cứ một điều kiện nào hết, miễn sao quý Thầy Cô cố gắng học thành tài, ra trường về lo việc Đạo cho Thầy Tổ mình hay tiếp nối con đường giáo dục cũng như hoằng pháp lợi sanh, là quá đủ rồi. Do vậy suốt trong 19 năm như thế đã có 187 Tăng Ni sinh Việt Nam du học tại Ấn Độ đã đến với tôi. Ban đầu họ nhờ Thượng Tọa Hạnh Chánh giới thiệu; nhưng sau đó vài năm thì họ tự động đến gặp tôi để trình bày nguyện vọng của mình, khi nghe tin tôi sang Ấn Độ để hành thương và gặp gỡ các Tăng Ni sinh tại đó. Trong số nầy có Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Dĩ nhiên là mỗi vị đến với tôi đều xưng Pháp Hiệu và cho biết đệ tử của ai, cần nhu cầu hằng tháng bao nhiêu cũng như đang học ở cấp bậc nào như: cử nhân, cao học hay tiến  sĩ. Để từ đó tôi sẽ nhờ Quý Thầy, Cô giúp tôi thể hiện tinh thần trợ cấp nầy. Ban đầu thì có Thầy Hạnh Chánh và sau đó thì có Thầy Như Tú.  Trong số 187 vị xuất gia ấy, không biết ngày nay còn lại bao nhiêu vị đang tu học, hành trì? Bao nhiêu người đã hoàn tục?Bao nhiêu người đang đứng lớp dạy học trên các bực giảng của Đại Học, Trung Học  ở trong cũng như ngoài nước? hay có bao nhiêu người đã ra đi vì bịnh hoạn hay những nhân duyên khác? Kết quả nầy tôi không có chính xác; nhưng hồ sơ tôi hiện đang lưu giữ ở văn phòng của chùa Viên Giác Hannover là có 132 vị đã ra học vị Tiến Sĩ và những vị còn lại là Cao Học hay cử nhân. Rất tiếc rằng từ năm 2011 tôi không tiếp tục chương trình cấp phát học bỗng nầy nữa, vì lẽ 19 năm trợ giúp như thế cũng là một đoạn đường khá dài rồi. Vả lại tuổi tôi cũng đã lớn; nên dành nhiều thời gian rãnh để dịch kinh, viết sách cũng như giảng pháp đó đây và cũng để cho thế hệ đi sau nối tiếp con đường của mình đã đi; nên tôi đã chấm dứt việc làm nầy kể từ thời điểm ấy.

 

Quý Thầy, Cô khi trình luận án Tiến Sĩ hay Cao Học xong, thường hay gửi tặng tôi một quyển. Do vậy tại trung tâm Tu Học Viên Giác ở Bồ Đề Đạo Tràng cũng như tại thư viện chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi đã lưu giữ lại hầu hết những luận án nầy của Quý Thầy, Cô đã tặng tôi, trong đó có luận án Tiến Sĩ của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Tôi đọc đã lâu và nội dung của luận án Ni Sư đã viết bằng tiếng Anh về “Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions.” Quyển luận án nầy sau được dịch sang tiếng Việt “Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa” và tôi cũng đã có nhân duyên viết lời tựa cho việc xuất bản tiếng Việt ở trong cũng như ngoài nước. Ni Sư Giới Hương là một vị Ni rất thích hoạt động trong vấn đề văn chương, giáo dục, văn hóa, từ thiện giúp đỡ người cơ nhở v.v… nên đã viết, sáng tác và chuyển dịch hơn 40 tác phẩm và nhạc, thơ, văn. Trong đó phải kể đến những quyển như: Ban Mai Xứ Ấn, Vườn Nai-Chiếc Nôi Phật Giáo. Mmời xem tủ sách Bảo Anh Lạc http://www.huongsentemple.com/index.php/kinh-sach/tu-sach-bao-anh-lac. Ai đọc đến các tác phẩm này và khám phá website sẽ nhiều thú vị và cống hiến của Ni sư. Ni Sư cũng đã đi vào trong những nhà tù ở Hoa Kỳ để giúp cho những người đang ở đây thực tập thiền tọa cũng như giảng những bài pháp cho những tù nhân nghe, nhằm cải đổi đời sống tâm linh của họ (mời xem cuốn: Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ). Ngoài ra, Ni Sư cũng đã về lại Việt Nam để giảng dạy tại trường Đại Học Phật Giáo Sài Gòn trong nhiều năm tháng qua, cũng đã gặt hái được nhiều thành quả nhất định qua việc giảng  dạy nầy. Đồng thời Ni Sư cũng thực hiện việc đào tạo chư Ni cho tương lai cũng giống như Sư Phụ Hải Triều Âm của mình đã tế độ cho cả ngàn ni chúng như vậy. Đây chính là cách báo Phật ân đức cùng Thầy Tổ cao cả nhất trong cuộc đời hành đạo của một người xuất gia.

 

Việc học cho có bằng cấp là điều rất cần thiết đối với  người xuất gia trong hiện tại. Bởi lẽ chúng ta đang sống tại ngoại quốc, nếu thiếu kiến thức căn bản về Phậc Học và ngoại ngữ thì không thể nào với tới mục đích của mình là mang đạo vào đời cho những người địa phương; nơi mà mình đang sinh sống được. Đồng thời việc tu càng quan trọng hơn như thế nữa. Bởi lẽ nếu một Tăng Ni Sinh chỉ có bằng cấp, đi diễn giảng quanh năm suốt tháng mà không hành trì, hạ thủ công phu  thì chẳng khác nào là một học giả, giống như bao nhiêu học giả khác đang ở ngoài đời giảng dạy tại các trường Đại Học mà thôi. Cho nên với người xuất gia; nên quan tâm nhiều hơn nữa về vấn đề hành trì nầy và Ni Sư Giới Hương đang thể hiện việc nầy qua việc nuôi dạy chúng cũng như công phu bái sám, thiền tập hằng ngày.Đây chính là nét đẹp của những bậc xuất trần thượng sĩ vậy.Việc giải thóat sanh tử vẫn còn xa trong cuộc sống nầy; nhưng đứng trước sự tử sinh và bao nhiêu tao loạn của cuộc đời mà người xuất gia làm chủ được chính mình, thì đó cũng là một sự giải thoát tương đối trong cuộc đời nầy vậy.

Giáo Sư Tâm Thụy Võ Văn Tường, người nhiếp ảnh nhiều ngôi chùa nhất của Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước đã cho in ấn tác phẩm chùa Việt Nam Hải Ngoại tập I bằng 4 ngôn ngữ: Việt, Anh, Hoa và Nhật ngữ rất có giá trị. Đến quyển thứ II thì Giáo Sư đã nhờ Ni Sư Giới Hương biên tập Anh Văn của tất cả những hạng mục trong hai quyển sách Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples) và Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam).Thượng Tọa Nhật Từ ở Việt Nam và Thượng Tọa Nguyên Tạng ở Úc đã giảo chánh lại trước khi xuất bản. Riêng bản dịch ra Nhật ngữ và Hoa ngữ thì tôi đã đảm nhận việc giảo chánh nầy. Sau đó Cô Thiện Tâm Suzan ở Bosten nhờ tôi giới thiệu Ni Sư Giới Hương dịch một quyển sách Anh Văn của Đức Đạt Lai Lạt Ma “Buddhism: One Teacher Many Traditions” giảng ra Việt ngữ “Phật Giáo-Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống”, Thầy Đạo Tĩnh tại Atlanta giảo chính lại và tôi cố gắng để soát lại cách dịch cũng như ý tưởng của câu văn và những danh từ Phật Học đã được dịch sang Việt ngữ. Ngoài ra, tôi cũng có nhân duyên viết giới thiệu cho Ni sư nhiều sách (tiếng Việt và Anh) khác được xuất bản trong và ngoài nước như Quan Âm Quảng Trần, Nếp sống  Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma, A Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não (2 tập), Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang, Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm, vv…

Do tôi và Ni sư Giới Hương đã có nhiều cơ hội để trao đổi qua lại về phương diện dịch thuật va viết lách nầy; nên tôi thấy rằng: văn phong của Ni Sư viết hay dịch rất trong sáng, dễ hiểu, có ý tưởng sáng tạo mới, dầu cho đó là Trung Quán Luận hay Tánh Không, dầu viết bằng tiếng Anh hay tiếng Việt. Do vậy, nhiều khi tôi nghĩ rằng Việt Nam chúng ta đã có những bậc Ni Lưu tiền bối như Ni Trưởng Thích Nữ Như Thanh, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải v.v… thì nay Phật Giáo Việt Nam tại ngoại quốc đã đương và sẽ có thêm những bậc Ni Lưu như Ni Sư Thích Nữ Giới Hương thì chắc rằng những người xuất gia nữ nói riêng và nói chung là Phật Tử Việt Nam sẽ được nhờ.

Viết để khuyến khích và trợ duyên cho cuốn sánh “40 Năm Tu Học Và Hoằng Pháp của Ni Sư Giới Hương” như thế nầy, tôi thấy là việc làm rất cần thiết, vì lẽ khi tác giả cho ra đời một tác phẩm nào đó mà độc giả lơ là, chẳng quan tâm thì cũng phụ ân người đã có tấm lòng cho Đạo, muốn trang trải hạt giống từ bi và trí tuệ của mình cho Đời và cho Đạo; khiến cho người chủ trương nhiều khi cũng tiến thóai lưỡng nan. Do vậy, tôi viết những lời nầy trang trọng gửi đến Ni Sư Giới Hương để kỷ niệm 40 năm xuất gia hành đạo của mình cũng là trực và gián tiếp tùy hỷ những việc làm của Ni Sư lâu nay vậy, đồng thời tôi cũng mong rằng có nhiều bậc Ni Sư lỗi lạc khác cũng nên đóng góp phần mình vào ngôi nhà Phật Giáo chung nầy. Có như thế văn hóa, văn học, văn chương cũng như tư tưởng Phật Học mới có thể dễ dàng đi vào lòng người hơn.

 

Xin nguyện cầu cho Ni Sư trong những ngày còn lại trong cuộc đời nầy có thể là 20 năm, 30 năm hay 40 năm sau nữa Ni Sư vẫn còn sáng tác, giảng dạy nhiều hơn nữa, thì người xuất gia cũng như tại gia sẽ không bao giờ quên hình ảnh cũa Ni Sư trong thế giới nầy.

 

Viết xong vào ngày 18 tháng 11 năm 2019

tại Tu Viện Viên Đức, thuộc miền Nam nước Đức,

Thích Như Điển

chuaviengiac2020@gmail.com 

 

 ht nhu dien (1)

Hòa Thượng ban pháp thoại tại sân trước Chùa Hương Sen

ht nhu dien (2)
                  Trì Tụng Thần chú Lăng Nghiêm
 
ht nhu dien (3)
Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác
Cùng tăng đoàn viếng thăm Chùa Hương sen ngày 12/04/2018
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5393)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5842)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6828)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5848)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10229)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8258)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13370)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5579)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13360)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6362)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567