Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Giải An (1914-2003)

28/07/201905:52(Xem: 5675)
Hòa thượng Thích Giải An (1914-2003)
HT Thích Giải An
TIỂU SỬ
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH GIẢI AN 
(1914-2003)
Viện Chủ Chùa Từ Quang 


 


I. THÂN THẾ:
Hòa thượng Thích Giải An 

Thế danh: Nguyễn Hòa (Nguyễn Giải An) 
Pháp danh: Như Bình 
Đạo Hiệu: Huyền Tịnh 
Ngài sinh ngày 23/7/1914 (tức 01/06 Giáp Dần), Phật lịch 2458, tại xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. 
Thân sinh Ngài là Cụ ông Nguyễn Văn Đây và Cụ bà Phạm Thị Bàn.

Cụ ông, Cụ bà đã sinh được ba người con gồm: hai trai, một gái mà Ngài là con trai út.

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An


II. XUẤT GIA HỌC ĐẠO: 
Thiếu thời, Ngài thường theo song thân đến lễ Phật, nghe pháp tại chùa Thọ Sơn. Sớm ảnh hưởng nếp sinh hoạt Phật giáo, thể theo nguyện vọng sơ tâm trong sáng, song thân của Ngài ngỏ ý thỉnh cầu Hòa thượng Khánh Tín cho Ngài được xuất gia tu học. Thuở ấy, Ngài vừa tròn 06 tuổi.
Vốn sẵn túc duyên, Ngài đã được Hòa thượng Khánh Tín thân truyền Tam quy ngũ giới với pháp danh Như Bình, hứa khả cho xuất gia tu học. Nhân ngày vía xuất gia của đức Từ Phụ, 08/02 Đinh Mão (1927), Ngài chính thức xuất gia và trở thành trưởng pháp tử của Hòa thượng.
Ngài được Hòa thượng cho thọ giới Sa-di vào ngày 14/4 Mậu Thìn (tức 01/6/1928), ban cho pháp tự Giải An, theo truyền thống mật truyền ấn tâm của Thiền phái Lâm Tế.

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An


Nhận thấy chí tu học, sáu thời thiền tịnh tinh nghiêm, khả dĩ tiến xa đạo nghiệp, Ngài được pháp Bổn sư cho làm giới tử cầu thọ Tỳ-kheo Bồ-tát giới tại Đại giới Đàn chùa Phước Sơn, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, vào ngày 19/6 Quý Dậu (1933), do danh tăng Đại lão Hòa thượng Tường Quang làm Đường đầu Hòa thượng. Đây chính là thời điểm quyết định ý chí phát túc siêu phương của Ngài.

Như thế Ngài thuộc hệ truyền thừa Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41.

Năm Ất Hợi (1935), Ngài nhập chúng tu học tại chùa Bích Liên, dưới sự giáo thọ của Hòa thượng Chơn Giám - Đạo Quang, đương kim chủ bút tờ báo Từ Bi Âm, được Hòa thượng ban cho đạo hiệu Huyền Tịnh.

III. HÀNH ĐẠO: 
Năm 1940, du hóa Nam phương, cùng Hòa thượng Bích Liên hoằng hóa Phật pháp ở các tỉnh miền Nam như Bà Rịa, Trà Ôn, Bến Tre.
Năm 1944, trở về Quảng Ngãi nhận trú trị cổ tự danh thắng Thiên Bút.
Năm 1945, Ngài tham gia Phật giáo Cứu Quốc thuộc Liên khu .
Năm 1950, Ngài lại tiếp tục du phương cầu học tại các Phật học đường Báo Quốc, Linh Quang của Phật giáo Huế.
Năm 1951, Ngài tham học tại miền Bắc.
Năm 1953, Ngài trở về Quảng Ngãi, khai sơn chùa Linh Sơn tại đèo Eo Gió, huyện Nghĩa Hành. Sau đó, Ngài khai sơn chùa Phú Long tức chùa Phú Văn ngày nay.


HT Thích Giải An

HT Thích Giải An


Năm 1954 (Giáp Ngọ), Ngài trụ trì chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng.

Năm 1955-1957, Ngài cùng chư vị Tôn túc Tăng-già Quảng Ngải, thành lập Giáo hội Tăng già và Hội Phật học tỉnh Quảng Ngãi sinh hoạt tại chùa Hội Phước. Hòa thượng liên tục mấy nhiệm kỳ làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già và kiêm nhiệm Hội trưởng Hội Phật học Quảng Ngãi.
Năm 1957 (Định Dậu), Ngài chính thức trụ trì chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi, kiêm nhiệm các chức vụ Hội trưởng, Hội phó Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi. Ngãi đã cùng Ban trị sự khởi công xây cất chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi, nay là Văn phòng của Ban trị sự.
Năm 1963, với cuộc đấu tranh chống chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, Ngài là người lãnh đạo Tăng Tín đồ Quảng Ngãi trực diện đấu tranh xuyên suốt phong trào cho đến ngày thành công mỹ mãn.

Năm 1964, Ngài là thành viên của Hội đồng TW GHPGVNTN, cũng là năm Ngài khai sơn Thọ Sơn tịnh thất tại xã Tư Nguyên, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1966, Hòa thượng là chứng minh đạo sư của GHPGVNTN Quảng Ngãi và nhập thất trì tụng kinh Pháp Hoa, phát tâm mỗi chữ lạy một lạy.
Năm 1967 (Đinh Mùi), Ngài khai sơn chùa Từ Quang, khối V, phường Nghĩa Lộ, Quảng Ngãi. Đây là trụ xứ Ngài thường trụ cho đến ngày viên tịch.
Năm 1969, Hòa thượng làm Tôn chứng Đại giới đàn Vạn Hạnh, tổ chức tại chùa Từ Hiếu, Thừa Thiên Huế.
Năm 1970, Hòa thượng làm Tôn chứng Đại giới đàn Vĩnh Gia, tổ chức tại chùa Phổ Đà, Đà Nẵng (từ 17-21/10/1970).

Ảnh: Đại giới đàn Vĩnh Gia do Đại lão HT. Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu Hòa thượng
Năm 1973, Hòa thượng làm Tôn chứng Đại giới đàn Phước Huệ, Bình Định.
Năm 1979, Ngài làm Đường đầu Đại giới đàn Nguyên Thiều, tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn, Bình Định.
Năm 1981, các bậc Tôn túc và Phật tử hữu tâm trên toàn quốc nhận thức bức thiết về sự thống nhất của Phật giáo Việt Nam, Ngài đã cùng trực tiếp tham gia cuộc vận động này.

Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, Ngài là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN và Ủy viên Tăng sự của Giáo hội Phật giáo Nghĩa Bình suốt các nhiệm kỳ.

Sau khi tách tỉnh (Quảng Ngãi-Bình Định), Phật giáo tỉnh Quảng Ngãi được thành lập, Hòa thượng là Trưởng ban tri sự, kiêm Trưởng ban Tăng sự Phật giáo Quảng Ngãi từ đó đến nay.

Suốt một đời “Chung thân dĩ pháp vi gia”, Ngài là bổn sư truyền thụ Tam quy Ngũ giới cho hàng đệ tử cư sĩ tại gia trong và ngoài tỉnh.
Suốt cả một đời của bậc Đống Lương Phật pháp, Ngài đã đem lòng từ bi thu nhận rất nhiều đệ tử xuất gia, Tăng Ni số lương hơn 60 vị, hiện nay đã là những trưởng tử của Như Lai.

Một số rất ít đệ tử dù thiếu phước duyên, không tròn như nguyện xuất gia nhưng vẫn nhiệt tâm với lý tưởng phục vụ đạo pháp, dân tộc.


IV. VIÊN TỊCH:

Thuận thế vô thường, khi tuổi đã cao, sức đã yếu, Hòa thượng an nhiên viên tịch tại chùa Từ Quang vào lúc 03 giờ 15 phút, ngày 20 tháng Giêng năm Quý Mùi, nhằm ngày 20/02/2003.
Hòa thượng trụ thế 90 năm, 70 hạ lạp.

Phật giáo Việt Nam từ nay vĩnh viễn vắng bóng một bậc tổ sư lương đống, nhưng mãi còn đây hương thơm đạo đức và oai nghi thánh hạnh của Ngài, như Cố Đại lão Hòa thượng Thích Kế Châu, pháp hữu của Ngài đã từng đề tặng:
Mích vô sở đắc giải an tâm
Hà luận cao đê thiển phục thâm
Tánh hải như bình trừng diệu trạm
Từ Quang chiếu triệt chấn trào âm.
(Tâm an được cái không câu
Thấp cao không luận nông sâu miễn bàn
Lắng trong biển tánh huy hoàng
Từ quang chiếu rọi dậy vang âm triều.)


Từ nay huyễn thân Ngài đã trở về với tứ đại. Nhưng hình ảnh cuộc đời Ngài, với đạo phong và giới đức thanh tịnh, mãi mãi là tấm gương chói sáng cho Tăng, Tín đồ quy ngưỡng.


HT Thích Giải An

HT Thích Giải An

HT Thích Giải An



Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế Khai Sơn Từ Quang Đường Thượng Húy Thượng NHƯ Hạ BÌNH Tự GIẢI AN Hiệu HUYỀN TỊNH Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.

PHÁP QUYẾN TÔNG MÔN CHÙA TỪ QUANG 
PHỤNG SOẠN








Ý kiến bạn đọc
10/04/202001:42
Khách
Chưa đủ.. Hoà Thượng làm đàn đầu giới đàn Phước Huệ 1989 tại tổ đình long Khánh Qui Nhơn Bình Định nữa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 8722)
Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Tác giả mang ơn sâu đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát vì các công trình nghiên cứu và dịch thuật của hai thầy mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo; và đối với bổn sư tác giả là Thiền Sư Thích Tịch Chiếu. Tác phẩm này được đặc biệt dâng tặng tới các thế hệ trẻ, và phổ quát dâng tặng cho tất cả chúng sinh.
16/12/2010(Xem: 5739)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 9474)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 6096)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 27048)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 11141)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 8109)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 8094)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]