Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn trong tang lễ Hòa Thượng Thích Quảng Thanh

17/06/201905:59(Xem: 5404)
Điếu văn trong tang lễ Hòa Thượng Thích Quảng Thanh
ht Quang Thanh

Điếu văn trong tang lễ Hòa Thượng Thích Quảng Thanh.
GS Phạm Vân Bằng
(Đọc trong đêm tưởng niệm Hoà Thượng Thích Quảng Thanh, ngày 15 tháng 6 năm 2019) 



Kính bạch giác linh Hòa Thượng Thích Quảng Thanh, Trụ trì Chùa Bảo Quang, California.

 

Một giờ trước khi Bác sĩ ký giấy cho Thầy xuất viện, Thầy đã quay sang nhìn con, với một nụ cười rất an nhiên tự tại, và nói: Bác sĩ trở tay không kịp.” Con đã không biết nói gì hơn là “Chúng con rất thương Thầy.”

 

Vâng chúng con đã rất thương Thầy. Trong trên 20 năm qua, chúng con đã đi theo Thầy trên con đường phụng sự đạo pháp và dân tộc. Qua xuốt thời gian đó, chúng con đã hiểu Thầy rất rõ. Thầy rất thẳng thắn, không sợ một ai, một thế lực nào. Thầy không thiên vị những người có quyền thế điạ vị. Thầy không khinh thường những người nghèo khó. Thầy  không ngại bất cứ điều gì. Thầy sẵn sàng nói lên ý nghĩ của Thầy. Một hôm sau khi Thầy phát biểu rất mạnh về các vấn đề liên hệ đến lịch sử Phật giáo, con đã thưa với Thầy: “Ít ai dám nói như Thầy!” Thầy bảo con, “Tôi chẳng sợ; Tôi chỉ nói sự thực,”  và “Ai muốn nói sao thì nói, gọi tôi là cái gì cũng chẳng sao, nhưng đừng động tới Thầy Tổ tôi.”

Thầy thật là một vị Thầy can đảm hơn người.

 

Có lần con đã thưa với Thầy là Thầy qúa nóng. Thầy đã cười, một nụ cười hoan hỉ. Thầy là một thi sĩ của miền Nam mà đã thực sự sống như lời thơ bất hủ trong bài thơ “Lời Mẹ dặn” của Phùng Quán đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm, Hà Nội, năm 1957:

“Yêu ai cứ bảo là yêu 
Ghét ai cứ bảo là ghét 
Dù ai ngon ngọt nuông chiều 
Cũng không nói yêu thành ghét 
Dù ai cầm dao dọa giết 
Cũng không nói ghét thành yêu.”

 

Và như thế chúng con đã luôn thương Thầy.

 

Những lần Thầy trèo lên mái chùa khi trời thật nóng,   hay khi đêm đang xuống dần với bóng tối chọang vạng,   hoặc khi chiếc áo ấm của Thầy không cản đủ hơi lạnh của những ngọn gío đông,   hai vợ chồng con đã năn nỉ cản Thầy,   xin Thầy đừng làm như vậy nữa.   Thầy đã nói: “Tôi không  làm thì ai làm cho.”

 

Sau những năm dài,   ngày đêm cặm cụi,   một mình Thầy với sự phụ tá của Thầy Hùng,   ngôi chùa vĩ đại Bảo Quang đã hoàn tất.   Ban kiến trúc xây chùa, kỹ sư Nguyễn Ngân, Kiến trúc sư Lê Ngọc Diệp,  Nhà thầu …. Viễn, những nhân viên của thành phố Santa Ana, và cả chúng con,  đã được Thầy hối thúc liên miên cho chóng xong việc xây cất.   Chúng con thương Thầy.

 

Thầy đóng khuôn,  đúc những cột đá xi măng,   những tượng Phật, những hoa văn,   uốn nắn những cây cảnh bonsai,   rồi ngắm nghía công trình của mình một cách mãn nguyện.    Chúng con nhìn Thầy những lúc đó mà thương Thầy.

 

Không hề thiếu một lần, trong suốt 22 năm, đều đặn mỗi tuần, dù mưa to,  dù nắng gắt của mùa hè,   hay lạnh lẽo của mùa đông,   người tu sĩ Phật giáo có thân hình vừa gầy vừa cao, trong chiếc áo nâu, đã trở thành một trông đợi của bao nhiêu người không nhà của quận Cam. Thầy đã đến quận Cam sau nhiều người, nhưng Thầy là người đầu tiên, đều đặn  và   bền bỉ nhất   đã đem tình thương của một trưởng tử của Như Lai đến với những người nghèo khổ nhất tại đây.   Chúng con thương Thầy.

 

Gần 20 năm,   một mình lủi thủi với sự giúp đỡ kỹ thuật và đánh máy của Thầy Hùng,   Thầy thực hiện đều đặn nguyệt san Trúc Lâm.    Không thiếu một tháng nào không có.    Thầy rất hài lòng với công trình văn hóa này   cộng với rất nhiều giải thưởng nhiếp ảnh quốc tế,   và hàng trăm bức tranh vẽ đủ kiểu và thể loại khác nhau.    Chắc không có một ai có nhiều tài như Thầy.    Chúng con thương Thầy.

 

Từ ngày Thầy còn ở trên ngôi chùa nhỏ trên đường Magnolia,   nhà con và con đã gần gũi với Thầy rất nhiều để thấy con người của Thầy rất cương quyết trong ý nguyện    xây dựng một ngôi Tam Bảo thật đẹp để lại cho đời sau   dù Thầy khá nghèo lúc đó.    Thầy vừa là một thiền sư, vừa là một thi sĩ, họa sĩ, nhiếp ảnh gia,   vừa là một người thợ lam lũ.

Chúng con hiểu và thương Thầy.

 

Sáng tác nhạc đạo,   làm thơ,   ngâm thơ,   đánh trống,   rồi đạo diễn làm phim, Thầy qúa nhiều tài.

 

Thầy  làm   rất nhiều điều   cùng một lúc. Hôm nay chúng con nghĩ có lẽ Thầy biết    Thầy phải chạy đua với thời gian.   Chúng con càng thương Thầy vô hạn.

 

Gần đây nhất,   Thầy đã cho Trung Tâm sinh hoạt CĐPGDN xử dụng hội trường và phòng ốc cho  các lớp học tạm trong hai tháng hè   và    đã chu đáo căn dặn các Thầy cô lớp Việt ngữ và gia đình Phật tử giúp đỡ chúng con trong việc này.    Chúng con thương Thầy và biết ơn Thầy sâu xa.

 

Đã nhiều lần chúng con nói với Thầy   là Thầy nên nghỉ ít bữa đi chơi đây đó.    Thầy nói “tôi chưa được đi đâu hết.   Nhưng đâu có thì giờ nào mà đi được.   Khi xong chùa tôi sẽ đi.”

 

Khi thấy việc xây cất đã tạm xong, Thầy nói với chúng con là Thầy sẽ có thời gian và muốn được xem chỗ này chỗ kia.  Chúng con nói  về Paris, Yellow Stone, Alaska, Á châu, và hứa sẽ đưa Thầy đi những nơi đó. Thầy nói sẽ mang máy ảnh theo để chụp hình và Thầy tin tưởng Thầy sẽ chụp những bức ảnh băng đá ở Alaska thật đẹp và những khu rừng hay suối nước ở các nơi rồi sẽ triển lãm và gửi đi dự thi quốc tế.

 

Cách đây gần một tháng, Thầy còn mong khỏi bệnh rồi sẽ đi dạo trên bờ biển thở hít không khí trong lành mát mẻ.    Thầy đã không còn thực hiện được những ước mơ thật quá nhỏ bé bình thường này. Chúng con thương Thầy qúa.

 

Nhưng thưa Thầy. Ít nhất Thầy cũng đã mãn nguyện với việc hoàn thành ngôi chùa Bảo Quang vĩ đại này, với một viện bảo tàng độc nhất vô nhị trong cộng đồng Phật Giáo Việt Nam hải ngoại, với việc giúp đỡ cho hàng ngàn người nghèo vô gia cư trong bao nhiêu năm qua.

 

Chúng con thương Thầy và xót xa cho những hy sinh đơn độc của Thầy cho công trình to lớn Thầy để lại   mà chưa hề được hưởng gì từ đó.

 

Thầy muốn sẽ tổ chức lễ khánh thành thật lớn.

 

Nhưng thôi, tất cả đã xong.  Chùa đã xong.  Viện bảo tàng đã xong. Tháp linh đã xong.   Cổng tam quan cao hơn thường lệ đã xong.   Mái chùa cao hơn luật lệ sẵn có đã xong.   Chuyện lo lắng về những người bạn nghèo khó không nhà của Thầy cũng coi như đã xong. Những bài nhạc bất hủ như “Mẹ là Phật”, “Cờ Phật Giáo Thế giới” v…v… cũng  đã xong. Và pho tượng của Thầy cũng đã xong.  

 

Tang lễ của Thầy sẽ là lễ khánh thành ngôi chùa mà Thầy một mình xây dựng nên.

 

Những ngày lao động kham khổ thực sự,   những đêm ngày làm cây cảnh,  xây hòn non bộ,  làm vườn cho mọi người,   những giọt mồ hôi Thầy nhỏ xuống năm này qua năm khác,   đã biến thành những gạch ngói,  xi măng,  bê tông cốt sắt,   tạo nên ngôi chùa này.   Chính vì vậy mà ngôi chùa này là một ngôi chùa vĩ đại và độc đáo.    Nó sẽ ghi dấu cuộc đời một người nóng nẩy,   nhưng ngay thẳng,   thật thà, yêu nước, yêu đạo,   không sợ hãi những điều ác,   không khom lưng trước quyền tước,    chỉ biết có   Phật   trên đầu,   tinh thần Bồ Tát Thí  bao la trong tim,    với lẽ phải là con đường chỉ dẫn cho cuộc đời.   Một cuộc đời trọn vẹn của hy sinh, phục vụ và lạc quan.

 

Hình ảnh Thầy sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm của chúng con và những người thương Thầy. 


Chúng con xin tiễn Thầy   thong dong ngao du sơn thủy,   trên đường về cõi Phật.    Xin Thầy phù hộ cho Phật giáo VN trường tồn,   ngôi chùa Bảo Quang đứng vững,   Thượng tọa tân trụ trì và các Phật tử an lạc.

Chúng con thương Thầy.

Chúng con xin cung kính bái biệt giác linh Thầy.

 

Nam  Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.

 

Phạm Vân Bằng và chồng Nguyễn Trọng Nho cùng tất cả các em và con cháu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7671)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18533)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5247)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7243)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4345)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17100)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8165)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4628)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5399)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5066)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567