Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Trung Quán

03/05/201910:57(Xem: 5957)
Hòa Thượng Thích Trung Quán


ht trung quan
Sơ Lược Tiểu Sử Đại Lão 
Hoà Thượng Thích Trung Quán

(1918-2003)

 

Hoà thượng họ Vũ, huý là Thanh Quát, pháp hiệu là Thích Trung Quán, sinh trưởng trong một gia đình thiện lương làm nông. Cụ ông là Vũ Đình Duật và cụ bà là Nguyễn Thị Nhiên. Ngài ra đời vào ngày 9 tháng 6 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Hạ Kỳ, phủ Nghĩa Hưng, Tỉnh Nam Định, Bắc Việt. Gia đình gồm bốn người con, hai trai và hai gái. Ngài là người con trai thứ hai trong gia đình.

Khi lớn lên, Ngài thấy rõ cuộc đời khổ nhiều vui ít. Tình cờ Ngài xem lịch sử Tổ Huyền Quang, thi đỗ trạng sư mà đi tu, Ngài cảm thấy tiền tài danh lợi đều hư vọng. Cuối cùng Ngài quyết chí xuất gia tu hành, đến lạy vị Cố Pháp Chủ Toàn Quốc Thượng Đức Hạ Nhuận làm thầy, lúc đó Ngài vừa tròn 19 tuổi.

Ngài mồ côi cha từ lúc 6 tuổi. Xuất gia tu học được mười năm thì mẫu thân của Ngài qua đời.

Từ đó Ngài dốc lòng tinh tấn tu hành. Ở với Sư phụ của Ngài được bảy năm, vì hoằng dương Phật pháp, đã được Hoà Thượng Thích Thanh Tuất cung thỉnh Ngài sang Lào vào năm 1959, và Ngài đã mang Phật Giáo đại thừa,  truyền bá vào xứ Lào. Ngài đã thành lập được 10 ngôi Chùa tại xứ Lào. Ngôi Chùa đầu tiên Ngài thành lập là Chùa Phật Tích, là nơi nổi tiếng có nhiều ma quỷ, cứ mỗi năm ma quỷ bắt đi một người. Từ trước đã có vị Sư về đó tính lập Chùa mà không thành, nhưng khi Ngài đến thì mọi việc đều thuận duyên, đó là Ngài có nhân duyên với vùng đất đó. Khi làm Chùa xong, thì không còn ma quỷ nữa và dân làng lúc đầu rất ngỗ ngịch, phá phách, ngay cả ông tổng trưởng cũng vậy. Nhưng sau đó tất cả mọi người đều quy thuận, phát tâm quy y Tam Bảo. Ngài đã cảm hoá được những chúng sinh cang cường ngỗ nghịch để trở về với Phật Pháp. Ngài đã độ rất nhiều Tăng Ni và tín chúng Phật tử ơ tại xứ lào.

Đến năm 1978, được Cố Lão Hoà Thượng Thích Chân Thường bảo lãnh Ngài sang Pháp, để hoằng dương Phật Pháp, lúc đó Ngài đã 60 tuổi.

Sang Pháp, những ngày đầu tiên Ngài tá túc ở Chùa Quan Âm gần một năm, sau đó Hoà Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu thỉnh Ngài về Chùa Hồng Hiên ở Fréjus (tại miền nam nước pháp), được 2 năm. Sau đó Cụ Escale và các Phật tử đã quy y với Ngài từ bên Lào sang Pháp, xuống Fréjus thỉnh Ngài về thành lập và trụ trì Chùa Hoa Nghiêm ở Paris bây giờ.

Trên hai mươi năm sống ở Pháp, Ngài ngược xuôi hoằng pháp, không ngại gian lao khốn khổ, bất cứ ở đâu cung thỉnh Ngài đều từ bi quang lâm và Ngài đã thành lập cũng như vị Thầy tinh thần của sáu ngôi Chùa ở Pháp và Bỉ.

Ngài dịch Kinh được cả thảy là 28 bộ Kinh dài và ngắn.

 1-Kinh Viên Giác, 2-Nhân Vương Hộ Quốc, 3-Vãng sinh Luận, 4- Kinh Hiền Ngu  
, 5-Lịch sử Đức Phật, 6-Thiện ác nhân quả, 7-Kinh Dược Sư, 8-Kinh Di Đà, 9-Kinh nghiệp Báo Sai Biệt, 10-Kinh phân Biệt Thiện ác báo ứng, 11-Kinh Đại Chính Cú vương, 12-Kinh Ma Ha Nan Tư Tư, 13-Kinh Cổ lai thế thời, 14-Kinh Đại Thông Phương Quảng. 15-Biện Minh tu Chứng , 16-Tịnh Tọa Pháp.17. Đại Trí Độ Luận......

Những bộ kinh sách trên đây do Hòa Thượng dịch và biên soạn rất công phu đã được xuất bản nhiều lần tại Lào, Việt nam cũng như tại Pháp, nhờ đó hàng  Phật tử mới có cơ duyên học phật. Thật là một đóng góp rất lớn lao của Hòa Thượng cho Lịch sử Phật Giáo Việt Nam trong vấn đề phiên dịch, trước tác trong quốc nội cũng như ở ngoại quốc.

Tánh Ngài thâm trầm, đơn giản nhưng rất oai nghiêm dõng dạc như một vị Thiền sư, khiến ai nấy cũng sanh tâm hoan hỹ khi diện kiến với Hòa Thượng.

Hòa Thượng cũng là 1 trong 7 vị Thượng Tọa đã được Đại Hội Tăng Già Việt Nam tại Hải ngoại nhóm họp tại chùa Phật Giáo Việt Nam vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào ngày 6 tháng 5 năm 1979 suy tôn lên ngôi vị Hòa Thượng để hướng dẫn tinh thần đồng bào phật Tử tại nước Pháp.

Công đức của Hòa thượng thật không có bút mực nào có thể diễn tả hết được. Mong độc giả đọc những kinh sách của Hòa Thượng đã dịch thuật và viếng những chùa chiền mà Hòa Thượng đã tạo dựng nên thì sẽ hiểu rõ hơn về cuộc đời của Ngài.

Suốt cuộc đời, Ngài lấy bốn chữ từ bi hỷ xả làm phương châm cho sự tu hành.

Ngài là tàng cây đại thụ che mát cho hàng tứ chúng đệ tử khắp nơi, Nơi nào có Ngài thì nơi đó cảm thấy ấm áp vô cùng. Nhưng vạn vật vô thường, thân tứ đại huyễn hoá cũng không tránh khỏi luật sinh già bệnh chết. Đột nhiên Ngài cảm thấy sức yếu, vào nằm nhà thương để điều trị. Những ngày gần sắp sửa ra đi, Ngài đã đòi về Chùa, nhưng bác sĩ cảm thấy Ngài sắp bình phục, và không bao lâu sẽ cho Ngài xuất viện, vì trước đó mấy ngày, ai cũng trông thấy Ngài rất khoẻ, tưởng chừng Ngài sắp được xuất viện, ai nấy đều mừng rỡ. Nhưng thọ mạng đã định sẵn và Ngài đã xả báo thân tứ đại, để trở về với hư vô. Ngài thâu thần viên tịch vào lúc 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 2 năm Quý Mùi, tức ngày 1/4/2003, trụ thế 86 tuổi và 66 hạ lạp.

Môn đồ Pháp quyến (kính soạn)

________

 

Chương trình Lễ Tang

 

 

                                    Ngày thứ ba 1/4/2003 (30/02/ Quý Mùi)

                                    16 giờ 00 : Cung nghinh nhục thân hồi tự

  

                                    Ngày thứ bảy 5/4/2003 (04/03/ Quý Mùi)

                                    09 giờ 00 : Lễ Nhập Kim Quan

                                    09 giờ 30 : Bạch Phật Khai Kinh

                                    09 giờ 50 : Cung thỉnh Giác Linh an vị

                                    10 giờ 30 : Lễ Thọ Tang

                                    15 giờ 00 : Tụng Kinh (luân phiên tụng niệm)

 

                                    Chủ Nhật 06/04/2003 (05/03/ Quý Mùi)

                                    06 giờ 00 : Cúng Trà

                                    08 giờ 00 : Tụng Kinh

                                    11 giờ 00 : Lễ Cúng Ngọ

                                    11 giờ 30 : Lễ Cung Tiến Giác Linh

                                    15 giờ 00 : Tụng Kinh (luân phiên tụng niệm)

 

                                    Ngày Thứ hai 07/04/2003 (06/03/ Quý Mùi)

                                    06 giờ 00 : Cúng Trà

                                    08 giờ 00 : Tụng Kinh

                                    11 giờ 00 : Lễ Bạch Phật Khai Kinh sơ tuần

                                    11 giờ 30 : Lễ Cung Tiến Giác Linh

                                    15 giờ 00 : Tụng Kinh (luân phiên tụng niệm)

 

                                    Ngày thứ ba 08/04/2003 (07/03/ Quý Mùi)

                                    đến ngày thứ năm 10/04/2003 (09/03/ Quý Mùi)

                                    06 giờ 00 : Cúng Trà

                                    08 giờ 00 : Tụng Kinh

                                    11 giờ 00 : Lễ Cúng Ngọ

                                    11 giờ 30 : Lễ Cung Tiến Giác Linh

                                    15 giờ 00 : Tụng Kinh (luân phiên tụng niệm)Ü

 

                                    Thứ sáu 11/04/2003 (10/03/ Quý Mùi)

                                    06 giờ 00 : Cúng Trà

                                    08 giờ 00 : Tụng Kinh

                                    11 giờ 30 : Lễ Trai Tăng

                                    15 giờ 00 : Lễ Yết Phật, Tổ tại Chánh điện

                                    17 giờ 00 : Lễ Thí Thực Cô hồn

                                    18 giờ 00 : Tụng Kinh (luân phiên tụng niệm)

 

                                    Ngày thứ bảy 12/04/2003 (11/03/Quý Mùi)

                                    06 giờ 00 : Cúng Trà

                                    07 giờ 00 : Cung tuyên tiểu sử, điếu văn,

                                                đạo từ của Hòa Thượng Chứng Minh

                                    08 giờ 30 : Lễ Phát hành - lễ Phất Trần

                                    09 giờ 30 : Lễ Cung nghinh Kim Quan thăng thượng giá

                                    11 giờ 00 : Lễ thỉnh Kim Quan trà tỳ.

                                    11 giờ 30 : Cảm tạ của Ban Tổ Chức

                                    12 giờ 30 : Tạ Phật Hoàn Kinh

 

 

BAN TỔ CHỨC TANG LỄ 

Từ ngày 2/4 đến ngày thứ bảy 12/4/2003

 

Trưởng ban tổ chức : Hoà Thượng Thích Tâm Châu.

 Phó ban tổ chức : Hoà Thượng Thích Minh Tâm, Hoà Thượng Thích Thanh Đạm,

Thượng Toạ Thích Tánh Thiệt.

  Ban Nghi Lễ :

Chứng minh : HT Thích Tâm Châu.

Phất trần : HT Thích Thanh Đạm.

Chấp lệnh : HT Thích Minh Tâm.

Công Văn : ĐĐ Thích  Thiện Niệm.

 Ban Kinh Sư : Sám Chủ Thượng Toạ Thích Thích Trí Minh, T.T Thích Tánh Thiệt,

T.T Thích Quảng Hiền, Đ.Đ Thích Nguyên Lộc, Đ.Đ Thích Thiện Niệm, Đ.Đ Thích Thiện Quang.

 Ban Xướng Ngôn Viên : Đ.Đ Thích Viên Đại.

 Ban Tiếp Tân : Thượng Toạ Thích Minh Chiếu, Đại Đức Thích  Đức Thắng,

Đại Đức Thích Viên Minh, Đại Đức Thích Minh Định, và các Phật tử Chùa Hoà Nghiêm,

Chùa Quan Âm, Chùa Kim Quang, Chùa Khánh Anh.

 Ban Thủ Quỹ : Đại Đức Thích  Minh Đăng,  Cô Kiếm, Cô Điển.

 Ban Thư Ký : Đại Đức Thích Minh Định, Cô Kiếm.

 Ban Tiếp Lễ : Sư Cô Diệu Minh, Sư Cô Diệu Trạm, Sư Cô Đàm Tịnh, Sư Cô Đàm Thu,

Cô Cơ, Cô Điển, Cô Loan.

 Ban Trần Thiết : Đại Đức Thích Thiện Niệm, Đại Đức Thích Viên Mãn, Đ.Đ Thích Từ Thọ,

Sư Cô Đàm Phương, Anh Chữ, Anh Châu.

 Ban Trang Trí : Đại Đức Thích Từ Thọ, Sư Cô Đàm Phương

Ban Trai Soạn : Trưởng ban : Sư Cô Đàm Chất, Sư Cô Trí Hải, Sư Cô Trí Minh,

Sư Cô Đàm Khiết, Sư Cô Đàm Như, Sư Cô Đàm Đào, và các Phật Tử Chùa Hoa Nghiêm

Bruxelles, Chùa Hoa Nghiêm Paris.

 Ban Ánh Sáng, Âm Thanh : Chú Minh Thọ.

 Ban Trật Tự : Các Phật Tử Chùa Hoa Nghiêm, Chùa Quan Âm, Chùa Khánh Anh, Chùa Linh Sơn.

 Ban Quay Phim, Nhiếp Ảnh : Anh Châu, Chị Hoa Phước, Đạo Hữu Minh Đăng.

Ban Vận Chuyển : Đại Đức Thích  Minh Đăng, Đại Đức Thích Viên Mãn, Anh Châu.

 Ban Y Tế : Bác sĩ Phạm Quang Bình, BS Phan Ngọc Anh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2012(Xem: 18506)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7232)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4341)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17081)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8161)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4626)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5396)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5059)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
21/03/2012(Xem: 5456)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567