Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tham luận: Tâm Minh Lê Đình Thám

07/04/201906:44(Xem: 6391)
Tham luận: Tâm Minh Lê Đình Thám

Tam Minh Le Dinh Tham-5


THAM LUẬN

TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM – BẬC HÀNH NGHI THÂN GIÁO

NCS: Thích An Nhiên (Nguyễn Ngọc Thành)

          Trong quyển “Việt Nam Phật giáo sử luận” có đoạn viết về cư sĩ Tâm Minh như sau: “Lê Đình Thám có lẽ là người cư sĩ đầu tiên ở thế kỷ XX đã dự phần vào việc đào tạo Tăng tài. Phật học của Ông được các bậc Tôn túc công nhận là thâm uyên, cho nên Ông đã được mời vào giảng dạy trong các Phật học đường Trúc Lâm và Tường Vân…”.[1] Với nhận xét như thế, chúng ta đã cảm nhận được đạo hạnh mẫu mực của một “Pháp sư cư sĩ”, Bác đã tận hiến đời mình cho xã hội, cho đạo pháp.  

         
Là một bác sĩ tài năng với thiên bẩm thông minh lại đam mê học hỏi nghiên cứu, Bác đã đạt học vị thủ khoa Y sĩ Đông Dương tại Hà Nội (1916), bác sĩ Y khoa ngạch Pháp quốc (1930) và địa vị giám đốc bệnh viện Bài Lao Huế (1933), Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám Đốc Bệnh viện Huế (1945) và nhiều chức vụ khác… Bác luôn được mọi người kính trọng và yêu quý không phải vì địa vị, chức vụ mà vì khí chất thuần khiết của “bậc hành nghi thân giáo”, luôn khiêm cung, hòa nhã, luôn đặt mình vào hoàn cảnh người để cảm thông, luôn sách tấn bản thân để lấy đó làm tấm gương sống động cho học trò.

         
Nhân duyên vào đạo của Bác trong một dịp tình cờ khi hạnh ngộ với bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng tại chùa Non Nước. Bác pháp danh Tâm Minh là đệ tử của Hòa thượng Giác Tiên - người khởi xướng cho phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung. Trong giai đoạn giữa thế kỷ XIX và XX, Phật giáo nước ta đã có nhiều dấu hiệu suy yếu, nhiều phong trào chấn hưng Phật giáo được khởi xướng khắp nơi mang tính quốc tế. Thái Hư Đại sư tại Trung Quốc đã phát động công cuộc chấn hưng Phật giáo qua tạp chí “Hải Triều Âm”: “Đạo Phật ngày càng suy đồi, luật pháp ngày càng hư hỏng, tín đồ ngày càng hèn yếu, coi khác nào như đèn giác lu mờ, như mây phủ nguyệt, như thủy lờ gương?”[2] gây chấn động không nhỏ đến Phật giáo các nước, làm cho Phật giáo Việt Nam phải nhìn lại để hiệu chỉnh mọi hoạt động.

         
Thừa ý chỉ của Hòa thượng Bổn sư, đầu tiên Bác thành lập Hội An Nam Phật Học để có một tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động phát khởi phong trào chấn hưng. Hội đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, sau đó dời về Chùa Từ Đàm. Đồng thời Bác Tâm Minh đã đề xướng thành lập Nguyệt san Viên Âm, Bác chủ nhiệm kiêm chủ bút. Số đầu tiên ra mắt độc giả vào ngày 01/03/1933, Tạp chí Viên Âm của Hội nhanh chóng được sự tín nhiệm của đông đảo độc giả, nhờ vào sự nỗ lực của cư sĩ Tâm Minh và các thành viên trong Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục[3].

         
Sau bốn năm Hội An Nam Phật Học hoạt động, Hòa thượng Giác Tiên viên tịch, đây là tổn thất lớn về mặt tinh thần cho Hội, mà Bác là Hội trưởng. Biến những mất mát đau thương thành hành động tiếp bước chí nguyện phục hưng chánh pháp của vị Thầy hướng đạo. Bác đã dõng dạt phát nguyện trước Giác linh của Hòa thượng bổn sư, lời phát nguyện ấy trở thành đường hướng hành trì cho con đường tu tập và phụng sự của Bác: “Chánh pháp cần phải truyền, chúng sanh cần phải độ, lời di huấn đó con nguyện xin gánh vác.”


Tâm nguyện thứ nhất,
Chánh pháp cần phải truyền:

        Bác noi theo bước chân phụng đạo ích đời, hai vai Bác gánh vác trọng trách một bên “truyền” một bên “độ”. Từ đây,“một mình Bác gánh lo mọi việc đời đạo song hành trong một chơn thể. Bác cũng chỉ có 24 giờ mỗi ngày như mọi người nhưng làm rất nhiều việc trí óc, tinh thần cho đến sự hoạt động của thể xác như con thoi không ngừng, hết lòng phục vụ đạo pháp nhân quần, không hề mỏi mệt và nhiệm vụ nào cũng xuất sắc chu toàn”.[4]

Để chánh pháp được cửu trụ, cần phải có thế hệ kế thừa để “truyền” trao, Bác bắt tay vào việc đào tạo Tăng tài, các trường Phật học nhanh chóng thành được lập như: Chùa Bảo Quốc, Chùa Tây Thiên, Chùa Diệu Đức trở thành những Phật học đường.

Năm 1933, mở trường An Nam Phật Học tại chùa Vạn Phước, sau đó dời về tại chùa Bảo Quốc do Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc giáo.

Năm 1932, Trường ni được khai giảng đầu tiên tại Chùa Từ Đàm do Ni sư Diệu Hương làm giám đốc. Cuối năm, được dời về Chùa Diệu Đức.

Năm 1935, mở trường Sơn Môn Phật Học cấp đại học tại Chùa Trúc Lâm do Hòa thượng Giác Tiên làm Giám đốc; lớp Trung học mở tại Chùa Tường Vân do Hòa thượng Tịnh Khiết làm Giám đốc; Cấp Đại học tại Chùa Tây Thiên do chính Bác phụ trách giảng dạy về luận học và triết học, Đông Tây.

Năm 1944, Phật học đường Báo Quốc được dời về Tùng Lâm Kim Sơn ở xã Lưu Biểu, hoạt động một thời gian rồi dừng và một số học tăng tiếp tục vào Nam để cầu học.


Bác Tâm Minh được chư vị cao Tăng tin tưởng mời giảng dạy các môn triết học Đông Tây, Kinh và Luận. Mặc dù có một kiến thức cao rộng, nhưng cung cách của Bác rất khiêm cung, kính trọng chư Tăng, mỗi lần có giờ giảng, Bác luôn mặc áo tràng và đảnh lễ chư Tăng trước khi lên bục giảng. Hình ảnh này chính là bài pháp sống động nhất về thân giáo. Sự khiêm cung của Bác đã thể hiện rõ phong thái, khí chất của “bậc hành nghi” thông qua thân giáo – khẩu giáo – ý giáo nhất như: Đối với thân giáo, sống trọn nghĩa, vẹn tình trung với Tổ quốc, hiếu với nhân dân, tin thành với Tam bảo”, cả đời Bác đã tận tụy với nghề nghiệp, lao tâm với việc Hội, lao lực với việc báo chí, nhọc trí với việc Phật học viện, thế nhưng Bác không bao giờ xao lãng sự học tu và nghiên cứu. Đối với khẩu giáo, Bác là người vừa tạng thông, vừa thuyết thông, khéo vận dụng ngôn ngữ để phô diễn giáo pháp, chính nhờ lối giải thích, trình bày Phật pháp một cách giản dị, mộc mạc nhưng rõ ý, tròn lời, phù hợp với căn cơ, trình độ người tham dự. Đối với ý giáo, Bác đã đưa ra tầm nhìn chiến lược về nhân sự tương lai cho Phật giáo về việc đào tạo Tăng tài và thế hệ kế thừa thanh thiếu niên Phật tử, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển và hưng thịnh của Phật giáo. Bài thơ thể hiện được chí nguyện hoằng truyền cho thế hệ kế thừa được đăng tải trên Viên Âm số 17 tháng 9 năm 1935, như sau:

        “Bấy lâu vật vả kiếp phù trầm,

        Nay đặng vào tai tiếng Phạm âm,

        Tùy tiện trau dồi gương chánh kiến,

        Ứng cơ giảng giải lý duy tâm.

        Ngộ mê vẫn đủ ngôn, thân, ý,

        Sinh tử nguyên vì sát, đạo, dâm.

        Tam bảo từ bi xin mật hộ,

        Cho khi hoằng pháp khỏi mê lầm.”[5]


Bài thơ chỉ vỏn vẹn tám câu nhưng Bác đã tạo nên một dòng chảy về hành trình hoằng pháp lợi sanh. Bác trần tình từ lâu phải ngược xuôi lên xuống trong kiếp phù du ảo mộng, nay lãnh hội được tiếng Phạm âm vi diệu, tùy phương tiện thiện xảo, tùy vào pháp môn tu tập để ngộ được sự hiểu biết đúng với chánh pháp.Từ đó, tùy vào căn cơ trình độ của chúng sanh mà giáo hóa giúp họ trực nhận được chân tâm thanh tịnh. Người ngộ, kẻ mê cũng chỉ do “thân, khẩu ý” mà tạo tác, nếu “ba nghiệp thường thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”[6] đây chính là người giác ngộ, nếu ba nghiệp không thanh tịnh tương ứng nơi uế độ thì đây là kẻ mê. Nguồn gốc của sanh tử không ngoài ba trọng giới “Sát, đạo, dâm”; Nguyện Tam bảo thường gia hộ, để khi hoằng pháp lợi sanh đúng với tôn chỉ của Đức Phật không bị sai đường.


Bác làm nhiều việc trọng đại cho đạo pháp, nhưng lúc nào cũng giữ thái độ khiêm cung, Bác nghĩ, dù giảng dạy có ý tưởng hay, lời nói đẹp mà tâm không thành kính, hạnh không đoan nghi, thì lời pháp dù có hay cũng trở nên trống rỗng. Nếu thân mà không nghiêm, việc làm không chánh trực thì cho dù nói lời hay, ý tưởng đẹp đều không có giá trị giáo dục, không thể chuyển hóa người khác, Đức Phật dạy:

“Trước hết tự đặt mình

Vào những gì thích đáng

Sau mới giáo hóa người

Người trí khỏi bị nhiễm”[7] 


Tâm nguyện thứ hai, Chúng sanh cần phải độ:

Với tầm nhìn chiến lược cho tương lai Phật pháp, Bác không chỉ giảng dạy và mở các lớp giáo lý cho các Phật tử và giới trí thức, mà Bác quan tâm đặc biệt đến giới trẻ - đội ngũ thanh thiếu niên của Phật giáo. Tại Đại hội đồng của Tổng Hội An Nam Phật Học tại Huế. Bác Tâm Minh Lê Đình Thám đã phát biểu “Không có thành tựu bền vững nào lại không nhắm tới hàng ngũ Thanh Thiếu niên. Họ là những người tiếp nối chúng ta trong ngày mai…” lời tuyên bố ấy như một lời phát nguyện thứ hai. Bác tập hợp thanh thiếu niên trí thức thành lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, Gia đình Phật Hóa Phổ về sau trở thành Gia đình Phật tử nhằm giáo dục giới trẻ có được nếp sống hướng thiện theo đạo đức Phật giáo. Đây là mô hình rất hợp thời đại, không chỉ là sự hỗ trợ tích cực xã hội, mà còn phát huy được lợi thế hoằng pháp. Hình thức này được gọi là tùy căn cơ mà hoằng pháp, Phật giáo vào đời theo nhiều phương cách khác nhau, tùy duyên giáo hóa để đem đạo đến gần với giới trẻ.

Có thể nói, với hai lời phát nguyện mà bác Tâm Minh Lê Đình Thám đã quỳ trước Giác linh Hòa thượng Bổn sư, cuộc đời Bác vun bồi để cống hiến cho tròn nguyện bằng nhiều thành tựu: Bác là người đã thiết lập những cơ sở giáo dục Tăng tài, đào tạo đội ngũ kế thừa cho Phật giáo phát triển vững mạnh; Bác mở các lớp giáo lý giảng dạy cho Phật tử và giới trí thức hiểu biết về Phật pháp; Bác là người đã “đại chúng hoá” Phật giáo đến mọi giới, thành lập nhiều niệm Phật đường, chùa ở nhiều nơi để truyền bá Phật pháp; Bác cũng đã phiên dịch nhiều bản kinh ra tiếng Quốc Ngữ để cho dễ hiểu, dễ tiếp cận; Bác là người đầu tiên đem Phật giáo đến với thanh niên trí thức, thiết lập hệ thống Gia đình Phật tử Việt Nam.

          Cuộc đời Bác Tâm Minh - Lê Đình Thám là một tấm gương soi sáng về “hành nghi thân giáo” trở thành một phương thức giáo dục chuẩn mực, quy phạm cho một Phật tử thuần thành. Thân hành trang nghiêm, lời nói đi đôi với hành động của Bác đã tạo nên sức thuyết phục và chuyển hóa hội chúng hướng mọi giới quy ngưỡng về với chánh pháp. Thật xứng đáng với lời nhận xét của Nguyễn Lang: “đệ tử tại gia xuất sắc nhất của Giác Tiên hẳn là Tâm Minh Lê Đình Thám.”[8] Bác phụng sự hết mình, vun đắp thêm vào trang sử một tấm lòng sắc son vì Đạo pháp.



THAM KHẢO

-     Thích Đồng Bổn (chủ biên, 1995), Tiểu Sư Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX. Thành Hội Phật Giáo TP.HCM

-     Thích Minh Châu (dịch, 1999), Kinh Tiểu Bộ 1, Pháp Cú, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam,TP. Hồ Chí Minh.

-     Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm (2006), Lịch Sử Phật Giáo Huế, Nxb. Văn Hoá Sài Gòn.

-     Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2011), Chư Tôn Thiện Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa  - Tập 2, Cư Sĩ Lê Đình Thám (1897 – 1969) Pháp Danh: Tâm Minh, Nxb. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

-     Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, Nxb. Văn Học, Hà Nội.

-     Tạp chí T Bi Âm, Mục đích của Từ Bi Âm.

-     Đức Quảng, Bác Tâm Minh – Lê Đình Thám – Đạo tâm  an lạc huyền vi, https://gdptvietnam.org/tuong-niem-bac-tam-minh.gdpt

-     Hòa thượng Thích Trí Quang (dịch giảng), Tỳ Ni Nhật dụng thiết yếu, https://thuvienhoasen.org/a2600/3-ty-ni-nhat-dung-thiet-yeu

 



[1] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, Nxb. Văn Học, tr.89

[2] Tạp chí T Bi Âm, Mục đích của Từ Bi Âm

[3] Thích Hải Ấn & Hà Xuân Liêm (2006),  Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb.Văn Hóa Sài Gòn, tr. 403

[4] Đức Quảng, Bác Tâm Minh – Lê Đình Thám – Đạo tâm  an lạc huyền vi, https://gdptvietnam.org/tuong-niem-bac-tam-minh.gdpt

[5] Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2011), Chư Tôn Thiện Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa  - Tập 2, Cư Sĩ Lê Đình Thám (1897 – 1969) Pháp Danh: Tâm Minh, Nxb. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.659.

[6] Hòa thượng Thích Trí Quang (dịch giảng), Tỳ Ni Nhật dụng thiết yếu, https://thuvienhoasen.org/a2600/3-ty-ni-nhat-dung-thiet-yeu

[7] Thích Minh Châu (dịch, 1999), Kinh Tiểu Bộ 1, Pháp Cú, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam,TP. Hồ Chí Minh, tr.63.

[8] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật Giáo sử luận, Nxb. Văn Học, Hà Nội, tr. 817.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8016)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 6574)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6040)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 6259)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 6999)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 7061)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 9142)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 5786)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 10366)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
09/04/2013(Xem: 5386)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567