Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Ân Sư (HT Thích Nguyên Trực)

11/12/201816:36(Xem: 4367)
Tưởng Niệm Ân Sư (HT Thích Nguyên Trực)

HT Thich Nguyen Truc-3
 TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ
Kính dâng Giác Linh HT Thích Nguyên Trực

 

       Chúng con là những học Ni của trường Phật Học Đại Tòng Lâm-Ni Viện Thiện Hoà có đôi dòng tưởng niệm xin được dâng lên Giác Linh cố Hoà Thượng Giáo thọ sư mà một thời Ni sinh chúng con đã thọ ân giáo dưỡng của Ngài.

         Kính bạch giác linh thầy

Chiều nay trời lạnh gió đông sang

Tin xa đưa đến Thầy viên tịch

Một nén tâm hương xin tiễn biệt

Vị Thầy giáo thọ mở khai tâm

      Thưa thầy! chúng con muốn được gọi những từ ngữ thân thương đó để nhớ lại những ngày mới chập chững bước chân vào ngôi trường Phật Học. Cách đây 30 năm chúng con đã đến mãnh đất Đại Tòng Lâm một nơi xa xôi hẻo lánh, nắng thì cháy da cát bụi bay mù mịt, mưa thì đêm ngày rã rích sình lầy, chung quanh là rừng tràm bao phủ, xa xa mới có vài ngôi tịnh thất nho nhỏ.

    Năm 1989 chỉ là lớp học bổ túc giáo lý, lớp học gần chánh điện chùa Đại Tòng Lâm, sau một năm mới được chính thức mở trường cơ bản Phật Học tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Chúng con, những ni sinh hồi đó còn trẻ xa thầy tổ hay buồn tủi luôn được chư vị giáo thọ thương yêu nhắc nhở. Hình ảnh thầy thật gần gũi qua những lần làm việc chung với các vị giáo thọ trong trường, thầy thì đạp đất bùn, chúng con gánh nước đổ vào đất rồi bỏ rơm khô nhồi chung dựng phên tre làm nhà cho tăng ni ở, chúng con đến đây chỉ là một mãnh đất trống nên mọi thứ đều phải làm từ đầu. Thầy đứng trên bục giảng, dáng ngươì cao cao, bình dị, tiếng nói vang vang, chữ viết đầy bảng sau gần 2 giờ dạy học; tay áo, áo dài của thầy đã lấm đầy phấn trắng, nhưng thầy vui lắm vì biết đám học trò cũng đã hiểu được thế nào là duy thức học, là bổn phận của một học tăng học Ni đối với tự thân và tha nhân. Có một ni sinh nói: Thưa Thầy vạt áo Thầy bị cháy rồi, thầy cười và nói: mặc cho mát con à. Những lời nói, cách sống cuả Thầy thật gần gũi, thương yêu tăng ni như tình của người cha thương đàn con dại. Hàng ngày thầy đạp xe đạp đi dạy, tới trường mồ hôi đổ đầy trán, mùa mưa hai tay lạnh run. Ban rẫy trồng có trái bí bó rau khoai đem cột sau xe, cúng dường thầy về nấu ăn cho mát, thầy cười và nói: ừ, mấy đứa con giỏi.

            Rồi quý thầy, học trò cùng nhau kéo lên núi Thị Vải trồng tràm, từ trường đi bộ xuống núi rất xa mà thầy trò cùng đi bộ, vừa đi thầy kể chuyện những ngày mới đặt chân vùng đất mới xây dựng chùa Từ Nhãn biết bao là gian nan vất vả, thiếu thốn mọi bề, nếu không kiên chí thì khó mà vượt qua các con à. Tuy là một vị hiệu phó của trường và làm nhiều chức vụ quan trọng trong giáo hội nhưng thầy rất gần gũi với học trò nên ai cũng cảm mến, nhưng thầy rất nghiêm nghị trong các kỳ thi trong cương vị ban giám khảo. Đến núi Thầy với tăng sinh cuốc đất chúng con đặt cây tràm xuống đất, đến giờ ăn thầy trò mỗi người một tô cơm dựa lưng bên các tảng đá mà ăn, tiếng cười nói inh ỏi của đàn con nhỏ làm thầy cũng vui theo. Không những ươm mầm trí tuệ cho việc học phật pháp, mà thầy còn mở lớp bổ túc văn hóa tại chùa Từ Nhãn mướn các giáo viên về chùa dạy cho những tăng ni cần có trình độ thế học, vì nếu ra trường bên ngoài học một số tăng ni sẽ không có tiền đóng học phí, nên thầy phải chạy ngược chạy xuôi lo toan mọi sự. Chúng con thích nhất mỗi năm hai lần được về chùa Từ Nhãn ăn đám giỗ ông thân bà thân của thầy, vào ngày 3 tháng 3 là giỗ ông, ngày 10 tháng 10 là giỗ bà , trong chiếc áo dài nâu bạc màu, đi lui đi tới thầy nói:  lâu lâu mới có đám giỗ được ăn ngon, ăn đi các con.”Sau khi ăn xong mỗi tăng ni sinh có thêm một phong bì đi về, ai cũng hoan hỷ mong đến ngày đó để được ăn giỗ ông bà.

   Ấn tượng nhất trong tâm con về thầy là đêm 14 tháng 7 năm 1990 ngày mai là lễ Vu Lan trường tổ chức văn nghệ, đang múa thì trời đổ mưa ai cũng chạy tránh mưa chỉ còn duy nhất thầy ngồi lại với các diễn viên không chuyên nghiệp đang say sưa biểu diễn. Sau đó các học trò hỏi; “ Sao trời mưa mà thầy vẫn ngồi coi” thầy nói rất đơn giản nhưng cảm động vô cùng: “ Thầy không đành bỏ đi.”    

    Chuyến hoằng pháp đến Mỹ lần đầu năm 2015 thầy cùng đi với thầy Nhuận Hải thăm người em ruột thịt là Hòa thượng Nguyên Trí trụ trì chùa Bát Nhã ở California,  anh em hội ngộ sau gần 40  năm cách biệt mừng mừng tủi tủi ôm nhau khóc thật là cảm động, Lần hoằng pháp thứ hai tới Bát Nhã thấy ngôi chùa vẫn chưa phát triển thầy buồn lắm , thương bào đệ cũng là pháp đệ nên cứ mỗi buổi sáng thầy ra chùa mới tụng kinh bái sám cầu nguyện long thần hộ pháp hộ trì ngôi phạm vũ Bát Nhã sớm viên thành. Lần hoằng pháp thứ ba qua lại thấy ngôi chùa Bát Nhã khang trang hơn, khánh thành tượng đài Đức Quán Thế Âm và cổng tam quan thầy vui lắm và nói:“Sau này nếu bịnh duyên không qua được hoặc về hầu Phật tui vẫn yên lòng” Thầy vui vẻ hứa sẽ qua Mỹ đi tham quan bang Alaska sau khi ăn tết xong.

    Chúng con rời trường mỗi đứa đi một nơi, thầy hàng ngày vẫn đến trường dạy học khoá này đến khóa khác, như ông lái đò vẫn âm thầm đưa người qua sông. Chúng con gặp lại thầy tại chùa Bát Nhã sau thời gian dài xa cách, vẫn nụ cười hiền, vẫn những lời hỏi han thương yêu, thầy trò cùng nhau có những buổi họp mặt đáng quý đầy tình đạo vị, những buổi dã ngoại thân yêu, thầy căn dặn cần thỉnh ý chư vị tôn túc địa phương về những phật sự trước khi làm để không bị sai sót. Thầy ân cần hỏi thăm từng người học trò, các huynh đệ thật cảm động khi đón tiếp thầy tại các tiểu bang xa xôi của miền đông buốt giá,  thầy đi cùng thầy Thánh Minh đi bằng xe hơi chứ không phải đi máy bay, thầy nói:“đến thăm mấy thầy mấy cô họ mừng lắm.” Thấy học trò nhiều người đã có chùa có đệ tử xuất gia tại gia làm được nhiều việc công tác phật sự cho giáo hội, cho cộng đồng thầy rất vui lòng. Chiều ngày 01 tháng 05 năm 2018 Chúng con tiễn thầy và thầy Nhuận Hải ra phi trường Los Angeles về Việt Nam, thầy vui vẻ ăn bánh xèo, chụp nhiều hình kỷ niệm. Tuy có bịnh duyên nhưng thầy rất tự tại, thầy nói: “Tưởng ăn cơm cúng mấy tháng trước, mà cũng gần rồi các con à, đi thì đi ở thì ở không có chi phải lo lắng phải bận lòng.” nhưng chúng con đâu ngờ đó là lần cuối cùng gặp Thầy, được nghe những lời chỉ giáo của thầy.

      Rồi ngày 10 tháng 11 năm 2018 nhằm ngày 04 tháng 10 năm Mậu Tuất lúc 10:40 phút nghe tin thầy viên tịch, chúng con bàng hoàng xúc động vì trước đó một ngày thầy với Hòa thượng Bát Nhã nói chuyện qua điện thoại, thầy cho biết sức khẻo tốt.

         Kể từ đây:

“Rừng thiền thưa thớt từ nay

Cội tùng ngã bóng về Tây xa vời

Thầy đi để lại cho đời

Giới đức nghiêm tịnh người người kính thương.”

 

           Kính bạch giác linh Thầy!

       Thôi thì, lời pháp nhũ từ đây không còn vang trên giảng đường nữa, những lời đạo từ chân thành làm ấm lòng người đã ngừng rồi, hình dáng nhà mô phạm đã đi vào cõi vô dư, nhưng đạo hạnh thanh cao, một đời nghiêm trì giới luật, một nhà giáo dục vẫn sáng ngời trong lòng của những ai đã có duyên gặp thầy. Những việc làm lời nói của thầy tuy rất đơn giản nhưng đã in đậm trong tim chúng con về một vị giáo thọ kính quý. Hàng hàng lớp lớp tăng ni thọ ân giáo dưỡng của thầy khắp nơi trên hành tinh này, xin cúi đầu hướng về tổ đình Từ Nhãn, núi Thị Vải nơi an trí long vị di ảnh của thầy đảnh lễ ba lạy, chúng con xin nguyện dấn thân làm phật sự như lời thầy thường nhắc nhở, mong chờ.

Phương xa chúng con chỉ tấm lòng

Hướng về cố quận nén tâm hương

Đảnh lễ vị thầy ân giáo thọ

Tòng Lâm-Ni Viện mãi khắc ghi.

    Kỉnh nguyện mười phương chư Phật phóng quang tiếp độ giác linh thầy cao đăng phật quốc.

  Kính dâng giác linh giáo thọ sư thượng Nguyên hạ Trực- Tân viên tịch thùy từ chứng giám.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Kính bái

Ni sinh: Thích Nữ Giới Định

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7159)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4206)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4828)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5595)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3821)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5248)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5325)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12962)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11533)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567