Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

16/11/201819:47(Xem: 5346)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

HT Thich Nguyen Truc-6
TIỂU SỬ

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG

THÍCH NGUYÊN TRỰC

(1943 - 2018)

 

- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

- Chứng minh Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu

- Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Nguyên Trưởng Ban Tăng Sự Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

- Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Cao Trung Phật Học Đại Tòng Lâm

- Nguyên Phó Ban Quản trị Tổ Đình Vạn Phật Quang Đại Tòng Lâm

- Khai sơn chùa Từ Nhãn, Kp.Vạn Hạnh, P.Phú Mỹ, Tx.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 

        I-THÂN THẾ:

 Hòa thượng Thích Nguyên Trực, tự Trì Hạnh, hiệu Diệu Liên, thế danh Phạm Đình Khâm, sinh ngày 08 tháng 03 năm 1943 (Qúy Mùi) tại làng Hội Phú, xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình thuần nông chất phác, sùng tín Tam Bảo.

Thân phụ Hòa thượng là cụ ông Phạm Thành, thân mẫu là cụ bà Mai Thị Ngõ pháp danh Đồng Chính, song thân Ngài sinh được 9 người con, 4 trai và 5 gái. Hòa thượng là con trai thứ 8 trong gia đình; hiện tại chỉ còn Hòa Thượng và em trai út là Hòa thượng Thích Nguyên Trí - trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Đặc biệt, thân mẫu của Hòa thượng cùng với người em ruột là ông Mai Văn Tre (thân phụ Hòa Thượng Thích Quảng Hiển) đều hết lòng thờ kính Tam bảo, phụng sự đạo pháp, nhất là đối với chùa Thiên Hưng, từ việc lớn đến việc nhỏ hai chị em đều chăm lo coi như việc nhà. Do đó, cả hai đều được chư tôn đức thời bấy giờ thương quý, tin tưởng. Nhờ phúc báo đó, hai chị em có đến 4 người con trai xuất gia là Hòa thượng Thích Nguyên Trực, Hòa thượng Thích Nguyên Trí, Hòa thượng Thích Quảng Hiển và Hòa thượng Thích Nhuận Hải. Sau này có thêm một người cháu cũng xuất gia là Sư cô Thích nữ Huệ Chiếu.

 

II. XUẤT GIA - HỌC ĐẠO:

Từ thuở thiếu thời, Hòa thượng đã đầy đủ thiện duyên với Phật pháp. Lúc 7 tuổi, Hòa thượng bệnh liên miên, không phương cứu chữa. Suốt ngày, Hòa thượng nhìn xung quanh, thấy toàn là Phật, nên đảnh lễ ngày đêm không ăn uống. Thấy vậy, cha mẹ bèn đem Hòa thượng ra chùa Thiên Hưng trong làng xin được cầu nguyện. Đến chùa, Hòa thượng tự dưng khỏe hẳn, không muốn về nhà nữa; Hòa thượng xin được ở lại chùa. Sau đó, Hòa thượng được sự chấp thuận của cha mẹ, đảnh lễ Ngài Thiên Hưng, húy Thị Nhật, hiệu Ngộ Tánh, đời thứ 42 dòng Lâm Tế Chúc Thánh làm Thầy thế độ xuất gia vào ngày Rằm tháng 7 năm 1950.

- Năm 1952, Hòa thượng Bổn sư thế độ viên tịch. Giáo hội Tăng già tỉnh Phú Yên cử Hòa thượng Thích Tâm Dung, tự Truyền Diệu, hiệu Liên Phương về trú trì chùa Thiên Hưng. Lúc bấy giờ, Hòa thượng đảnh lễ thọ pháp xin được làm đệ tử của Ngài Tâm Dung và được ban pháp danh là Nguyên Trực, thuộc đời 44 dòng Lâm Tế, môn phái Tổ sư Liễu Quán.

- Năm 1954, em trai của Hòa thượng là Ông Phạm Đình Quế cũng xin cha mẹ xuất gia học đạo với Ngài Tâm Dung và được ban cho pháp danh là Nguyên Trí. (nay là Hòa thượng Thích Nguyên Trí-trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ)

- Năm 1959, Ngài Bổn sư cho Hòa thượng ra tòng học tại Tu Viện Nguyên Thiều - Bình Định dưới sự hướng dẫn của cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang. Cũng tại đây, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.

 

III.  HÀNH ĐẠO:

- Năm 1963, Sau khi tốt nghiệp tại Phật Học Viện Nguyên Thiều, Hòa thượng về lại chùa Bảo Tịnh-văn phòng Tỉnh Hội tỉnh Phú Yên để phụ công tác của Giáo hội. Sau đó, Ngài được công cử vào trường Bồ Đề tại thành phố Tuy Hòa-tỉnh Phú Yên (do Đại lão Hòa thượng Trí Nghiêm xây dựng năm 1956) để điều hành và giảng dạy.

- Năm 1966, Hòa thượng được Ngài Bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn“Phước Huệ”, tổ chức tại Phật Học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang, do Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất Tăng Thống làm Đường đầu Hòa thượng.

- Năm 1967, Hòa thượng vào Sài Gòn theo học tại Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Quảng Hiển thành lập chùa Từ Nhãn, gần khu vực Bà Quẹo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

- Năm 1971, Hòa thượng muốn tìm nơi thanh vắng tu tập và tiếp Tăng độ chúng, nên Hòa thượng cùng với pháp đệ là Hòa thượng Thích Nguyên Trí ra khu vực núi Thị Vải, xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai, (nay là Khu phố Vạn Hạnh, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) khai sơn chùa Từ Nhãn.

Trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Nguyên Trí thành lập các làng Phật giáo: Vạn Hạnh, Hộ Pháp, Tịnh Độ, Quảng Phú…

 - Năm 1988, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Thiện Phụng, Hòa thượng Thích Minh Hiển, Hòa thượng Thích Nhuận Hải mở Lớp Bổ Túc Giáo Lý cho Tăng Ni khu vực Làng Phật Giáo Vạn Hạnh và Đại Tòng Lâm.

  - Năm 1990, Hòa thượng cùng với Hòa Thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Minh Đạt, Hòa thượng Thích Giác Hạnh thành lập Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm, (nay là Trường Cao Trung Cấp Phật Học Đại Tòng Lâm) để tiếp tục sự nghiệp đào đạo tăng tài cho Giáo hội.

- Năm 1991, sau khi một phần địa giới của tỉnh Đồng Nai tách ra sát nhập với đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để hình thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Phó hiệu trưởng Trường CTPH Đại Tòng Lâm, cộng tác cùng HT. Thích Quảng Hiển trong công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài.

- Năm 1992, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Giác Hạnh,… thành lập GHPGVN tỉnh BR-VT.

- Nhiệm kỳ I (1992-1997), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Phó Thư ký BTS PG tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ II (1997 - 2002), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự tỉnh kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Tân Thành.

- Từ năm 1999 - 2001, Hòa thượng mở lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni huyện Tân Thành và đảm nhận vai trò Chủ nhiệm.

- Nhiệm kỳ III (2002 – 2007), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự Phật giáo tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ IV (2007-2012), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh.

- Nhiệm kỳ V (2012-2017), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ VI (2017-2022), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy tôn vào Ban Chứng minh - Ban Trị Sự Giáo Hội Phật giáo tỉnh.

- Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc lần thứ VIII (2017-2022)  được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Ngài được Đại Hội suy tôn vào vị trí Thành viên Ban Chứng Minh - Hội Đồng Chứng minh GHPGVN.

- Ngoài ra; Hòa thượng còn làm Tôn chứng cho các Giới đàn Thiện Hòa tổ chức tại Đại Tòng Lâm vào các năm 2000, 2003, 2006, 2009, 2013, 2016. Vào năm 2012 Ban Kiến Đàn Giáo Hội tỉnh Hậu Giang, cung  thỉnh Ngài làm Giáo thọ A Xà Lê tại Giới Đàn Nhật Tiên 3.

- Năm 2016, nhận thấy sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của mình sắp mãn, thân tứ đại già yếu không thể duy trì lâu dài, cần phải thực hiện sứ mệnh “Truyền đăng tục diệm”, Ngài đã bàn giao lại mọi công tác của Giáo hội và tìm người kế thừa để tiếp tục duy trì mạng mạch Tông môn và phát huy sự nghiệp hoằng pháp. Điều đó được Ngài gửi gắm trong diễn văn khai mạc lễ bổ nhiệm trụ trì chùa Từ Nhãn ngày 03/03/2017 như sau: Chư Phật, Chư Tổ thường dạy: “Tổ tổ tương truyền, sư sư tương kế, đạo đời một thể viên dung, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, truyền trì mạng mạch với trọng trách một sứ giả Như Lai. Thật vậy, đời người không quá 70 hay 100 năm hy hữu bởi định luật vô thường của sinh - lão - bệnh - tử không hẹn cùng người... Hiện tại, tuổi cao sức yếu cần sắp xếp người thay thế kế vị về mặt pháp lý - pháp nhân để an lòng những tháng năm còn lại thực hiện việc “nội cần khắc niệm chi công - ngoại hoằng bất tranh chi đức”.

Cuộc đời Hòa Thượng thật xứng đáng với cái tên mà Ngài Bổn sư đã ban cho, Hòa thượng luôn cương trực, thẳng thắn trong công tác điều hành hành chánh Giáo hội qua các nhiệm kỳ mà hòa thượng đã đảm nhận. Với tâm nguyện hoằng dương Phật pháp, cả cuộc đời Hòa thượng phụng hiến cho Đạo pháp - dân tộc, hết lòng với lý tưởng giáo dục, đào tạo các thế hệ Tăng Ni tài cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam; với sứ mệnh “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, Hòa thượng đã tiếp nhận và giáo dưỡng hơn 100 đệ tử xuất gia hiện đang trú trì và hoằng dương chánh pháp ở các tỉnh thành trong nước và nước ngoài.

IV . NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI CÙNG:

Mặc dù niên cao lạp trưởng, thân mang trọng bệnh, nhưng Hòa thượng vẫn không quên ân giáo dưỡng, nghĩa pháp lữ, tình cốt nhục:

Năm 2013, Hòa thượng đã qua Pháp để tiễn biệt HT. Thích Minh Tâm, viện chủ chùa Khánh Anh, Pháp Quốc.

Năm 2016, Hòa thượng cũng đã phát tâm trùng tu lại tổ đình Thiên Hưng ở Phú Yên; kiến thiết lại bảo tháp hàng trăm năm tuổi đã bị hư hoại của các vị tổ sư, nhất là Bảo tháp của Tổ Thiệt Lãm, Khai sơn Tổ đình Thiên Hưng; di dời tháp Hòa thượng Bổn sư từ Tuy Hòa về lại chùa Tổ.

Năm 2017, Hòa thượng sang Hoa Kỳ thăm pháp đệ lần cuối cùng, là Hòa thượng Thích Nguyên Trí, trụ trì chùa Bát Nhã.

Khi về Việt Nam, dường như dự biết được mình sắp mãn duyên trần, nên Hòa thượng dành thời gian đi thăm các huynh đệ Pháp lữ đồng tu, đồng học, đồng hoạt động Phật sự trong mấy mươi năm qua và đặc biệt Hòa thượng đã không quản ngại đường xá xa xôi, thân lâm đến trú xứ của các đệ tử, từ miền Tây đến Cao nguyên, từ Duyên Hải miền Trung đến tận phương Bắc xa xôi, nhằm động viên sách tấn, căn dặn các môn đệ phải luôn chung sống trong tinh thần lục hòa cộng trụ, trao dồi đạo tâm xây dựng một đời sống an lạc giải thoát và Hòa thượng còn chia sẻ kinh nghiệm tu tập, nghiệp vụ hành chánh Giáo hội cũng như sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh. 

 

V. VIÊN TỊCH:

Tịch lặng sơn cao

Đường trần rũ bỏ

Mênh mang trời rộng tiêu dao

Khứ lai vận hành đã tỏ.

Hòa thượng lâm trọng bệnh trong những năm tháng gần đây nhưng vẫn luôn tinh tấn với kệ kinh, khi thì đối trước án Phật trì tụng - lúc  thì mặc niệm trong tâm, miệng không ngưng câu Phật hiệu, tâm chẳng rời tánh chơn như.

Những việc cần làm Hòa thượng đã làm xong, không còn vướng bận các pháp thường tình, duyên trần đã mãn, Hòa thượng an nhiên xả báo thân, viên tịch vào lúc 10 giờ 40 phút, ngày 10 tháng 11 năm 2018 (nhằm ngày mùng 04 tháng 10 năm Mậu Tuất), Phật lịch 2562, tại chùa Từ Nhãn, nơi ghi dấu bước chân hành đạo của Ngài, trong đạo tình và sự hộ niệm của các pháp lữ, tứ chúng đệ tử. Trụ thế 76 năm, 54 Hạ lạp.

Than ôi!

Một bước theo duyên tụ tán

Qua cửa vô môn, kính tiễn biệt Người.

Hòa thượng mỉm cười

Tăng Ni xót dạ

Tấm lòng nhân hậu

Rạng mãi hóa thành.

Từ nay, hoa trắng tung bay khắp trời Vạn Hạnh,

Từ Nhãn lặng thinh, khóc Người vào cõi thiên thu.

Hòa thượng đã thể nhập vào Niết-bàn Tịnh lạc, nhưng đạo phong của Ngài vẫn tồn tại với Tăng Ni Phật Giáo tỉnh BR-VT và trong lòng đệ tử Phật khắp muôn nơi.

Tuy ngôn ngữ trầm phù của thế gian không chuyển tải hết được công hạnh của Hòa thượng, nhưng chúng con cung kính ghi lại vài dòng lược sử của Ngài như một nén tâm hương, đảnh lễ thâm ân của một bậc thạch trụ tòng lâm trong ngôi nhà Phật pháp. Ngưỡng nguyện giác linh Hòa thượng cao đăng thượng phẩm và hồi nhập Ta bà, tiếp tục sứ mệnh cao cả thiêng liêng: Hóa độ chúng sanh đồng về bến giác.

 

Nam Mô Tân viên tịch, Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Việt Nam Phật Giáo Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh, Khai Kiến Từ Nhãn Tự, Húy Thượng Nguyên Hạ Trực, Tự Trì Hạnh, Hiệu Diệu Liên, Phạm Công Trưởng lão Hòa Thượng Giác Linh, Thùy Từ Chứng Giám.

 

                                                      Môn Đồ Pháp Quyến

                                                     Đồng phụng soạn                                    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6560)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4570)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4513)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4446)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10368)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5186)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6003)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6550)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7849)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9046)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567