Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Minh Cảnh Định Tâm, Huệ Quang Thường Chiếu

15/10/201809:50(Xem: 4696)
Minh Cảnh Định Tâm, Huệ Quang Thường Chiếu


ht minh canh-6
MINH CẢNH ĐỊNH TÂM
HUỆ QUANG THƯỜNG CHIẾU

Thành kính đảnh lễ Giác Linh Hòa Thượng Thích thượng Minh hạ Cảnh!

Một sáng Huệ Quang báo hung tin
Tôi nghe chết lịm cả tim mình
Còn đây lời hứa, ngày tao ngộ….
Người đã mãn duyên, đã đăng trình….!

Những ngày vừa qua tôi khá bận rộn trong việc liên hệ và sắp xếp các thành viên trong Trung Tâm Phiên Dịch Phật Học Anh Việt trước ngày nhận quyết định chuẩn y Thành Viên Chính Thức của Trung Tâm từ Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (VNCPHVN). Làm công việc này tôi liên tưởng đến các Trung Tâm khác đặc biệt là Trung Tâm Phiên Dịch Phật Học Hán Nôm Huệ Quang với vị Giám Đốc là Hòa Thượng tận tâm, tận sức với công việc, về chiều dài thời gian hiện diện, quá trình hoạt động đào tạo, phiên dịch, ấn bản khoa học, cơ sở vững vàng,… và tôi mong từng bước Trung Tâm Phiên Dịch Phật Học Anh Việt cũng được lớn mạnh theo chiều hướng đó. Thế rồi sáng sớm nay, theo giờ Hoa Kỳ, thứ 5 ngày 11/10/2018, chợt hay tin Ngài Viện Trưởng Tu Viện Huệ Quang, Saigon viên tịch, tôi bàng hoàng, xúc động và hình ảnh, kỷ niệm và những ấn tượng về Người lung linh hiện ra trong dòng tâm thức của tôi .

Ấn tượng đầu tiên của tôi về Tu Viện Huệ Quang và Hòa Thượng (từ đây, Hòa Thượng là chỉ cho Ngài Viện Trưởng Tu Viện Huệ Quang) là vào năm 1997 khi tôi học xong chương trình cử nhân Đại Học Vạn Hạnh, trong khi chờ đủ điều kiện đi du học ( tài chánh và giấy tờ), tôi muốn học nâng cao cả 2 ngôn ngữ Anh Văn và Hoa Văn. Khi thấy tôi phải đi học Hoa Văn ở Quận 5 xa xôi, Cố Hòa Thượng Thích Nguyên Pháp thảo luận việc này với Hòa Thượng và Hòa Thượng sắp xếp cho tôi trú tại Huệ Quang, học thểm tiếng Hoa tại đó và có thể học thêm bên ngoài. Thế nhưng vì bận về tỉnh làm giấy tờ hộ chiếu và chuẩn và sau đó đi du học Ấn Độ nên tôi chưa đến ở Huệ Quang nhưng vẫn luôn âm thầm tri ân Hòa Thượng đã sẵn lòng tạo duyên cho tôi với nhu cầu trú xứ yên ổn cho việc tu học.
Ấn tượng thứ hai là khi tôi đang giảng Pháp và Phật sự miền Bắc, tình cờ gặp một đệ tử của Hòa Thượng trong một gia đình Phật tử trong lúc vị đó đang đi Bắc Ninh, Bắc Giang,… để chụp hình ghi lại các tàng bản, mộc bản các bia khắc, các bản Kinh cổ có giá trị sưu khảo. Tôi rất quý những người làm việc công phu và nghiêm túc như thế (theo cách Khảo Cổ Học, Văn Bản Học của Giáo Sư Lê Mạnh Thát,…). Thật đúng là “Danh Sư xuất Cao Đồ”. Người Thầy phải có sự thao thức, khuyến tấn thế nào thì đệ tử mới lặn lội đường xa từ Nam ra Bắc trong nhiều tuần để chụp hình, thu thập những áng văn chương Phật Giáo quan trọng như vậy. Làm nhà nghiên cứu, chúng ta phải biết trân quý những nguồn tài liêu mà sự thu thập chúng đòi hỏi công sức, dấn thân biết bao!
Ấn tượng thứ ba là mỗi khi những Tăng Ni Sinh đã hoàn thành các chương trình giáo dục Phật Giáo gặp tôi hỏi ý kiến : nên học tiếp những gì? Tôi luôn nhấn mạnh về sự nắm bắt và sử dụng các ngôn ngữ : Hán, Hoa, Anh, Pali, Sanskrit, Tây Tạng để tắm mình trong Suối Nguồn Phật Pháp. Tôi luôn luôn khuyến khích tán thán khi họ chọn đến học tại Tu Viện Huệ Quang, ngay cả một Sư Đệ của tôi cũng thế. Tôi cũng rất là tùy hỷ khi một vị Sư Đệ trưởng thành từ “lò đào tạo Huệ Quang” và trở về tỉnh nhà Phú Yên dạy học rất hiệu quả, vững vàng và lợi lạc.
Ấn tượng thứ tư là từ dung của Hòa Thượng luôn sẵn sàng hiện diện để tán trợ mọi công việc Phật sự của VNCPHVN và của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN). Hòa Thượng chứng minh và tham dự Hội Thảo Quốc Tế : Phật Giáo vùng Mê Kông, 35 năm Phật Giáo Việt Nam, hình thành và phát triển, Lễ Tổng Kết cuối nhiệm kỳ của VNCPHVN 2017, cuộc họp mặt đầu tiên của VNCPHVN nhiệm kỳ (2017-2022) vào tháng 12/2017…. Hòa Thượng là người “nói ít, làm nhiều”, khi được mời phát biểu thì chia sẻ kinh nghiệm một cách khiêm tốn, vừa đủ, thực tiễn, lợi lạc. 
Ấn tượng thứ năm là khi quan sát về các sinh hoạt của TV Huệ Quang, chúng ta thấy nơi đó sống động phong phú với việc đào tạo ngoại ngữ tiếng Hán Cổ, tiếng Hoa, Tiếng Sanskrit, xuất bản các đặc san nghiên cứu định kỳ, có các chương trình thuyết trình đề tài khoa học, có chương trình huấn luyện mầm non với Phật Pháp với chủ đề : “Vui học tiếng Hoa” bên cạnh những sinh hoạt Lễ Hội và khóa tu tại Tu Viện. Chương trình sinh hoạt Phật Pháp phong phú, đa dạng, khoa học và hấp dẫn, lợi ích cho nhiều thành phần, nhiều đối tượng.
Ấn tượng thứ sáu là hầu như mọi người nghiên cứu Phật Học đều tham khảo bộ : Phật Quang Đại Từ Điển. Công trình phiên dịch nhiều tập đồ sộ này đầy công phu này là do Trung Tâm Hán Nôm Huệ Quang đảm trách. Bộ Từ Điển này cũng đang được các giáo sư và các học giả tại Đại Học University of the West, Hoa Kỳ dịch ra tiếng Anh để phổ biến đến độc giả Tây Phương. Thời gian gần đây, chúng ta xem bộ phim nổi tiếng : Cuộc Đời Đức Phật do Trung tâm Diệu Pháp Âm và Trung tâm Huệ Quang hợp tác thực hiện việc biên dịch, biên tập và lồng tiếng. Mỗi chúng ta đều âm thầm tri ân Trung Tâm Hán Nôm Huệ Quang giúp chúng ta sống lại thời Đức Phật, hiểu nhiều hơn về Đúc Phật và từng con số, từng khái niệm trong Giáo Pháp cùa Ngài.
Ấn tượng thứ bảy và là ấn tượng trực tiếp sâu sắc nhất là đầu xuân Đinh Dậu 2017, tôi cùng một vị tu sỹ từ Linh Sơn Pháp Quốc về cùng đi đảnh lễ viếng thăm chư Tôn Đức mà chúng tôi kính trọng nhất và như vậy, Tu Viện Huệ Quang là điểm đến đầu tiên. Chúng tôi trân trọng công phu dịch thuật và huấn luyện dịch thuật do Hòa Thượng chủ xướng và theo sát từng bước bao nhiêu năm qua, noi gương vị Thầy của Hòa Thượng là Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh. Trong khi hầu trà với Hòa Thượng, tôi được hiểu rõ hơn về những thuận lợi, khó khăn, các quá trình, những ưu tư của Hòa Thượng về việc lưu truyền Kinh Điển Phật Giáo, phát huy chánh kiến. Hòa Thượng từng là Giáo Thọ Sư của Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, Trung Tâm Huệ Quang, bên cạnh đó còn bận rộn với bao nhiêu việc quản lý, vận động bảo trợ cho Tăng chúng ở Huệ Quang, nâng cấp thư viện, lo cho Tăng Ni Sinh và Giáo Thọ tại Huệ Quang,…Hòa Thượng tìm hiểu về tôi và mời tôi phụ trách bộ môn : Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, sự truyền bá Phật Giáo và Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam cho các lớp dịch thuật có được nền tảng nắm bắt về Phật Giáo Nguyên Thủy và phát triển… Tôi nhận lời, nhưng sau đó, khi sắp khai giảng lớp học thì tôi có Phật sự nước ngoài đành xin hoãn lại dịp sau,…
Ấn tượng thứ tám là qua các lần thăm viếng, tôi nhận thấy về cơ sở vật chất, Tu Viện Huệ Quang xây cất gần xong, phát triển quy mô, tầm vóc để đáp ứng tiện nghi Giáo Dục Phật Giáo, các khóa học tại đó. Hòa Thượng chẳng những đi sâu vào chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo mà còn dày công phát triển hạ tầng cơ sở giáo dục, tự viện. Gần bên Đầm Sen, Tu Viện Huệ Quang như Hoa Sen giữa bùn, những ai mệt mỏi và không còn mong cuốn cuồng trong cuộc rong chơi trần thế có thể quay về tiếng chuông thức tỉnh và tịnh độ nhân gian của Tu Viện Huệ Quang. Tất cả đều nương vào ân đức lớn lao của Hòa Thượng, tôi tự dặn lòng có lúc đến xin một phòng trú tại đó, ôn học thêm tiếng Hoa – Hán, Sanskrit và phụ giảng những môn nào phù hợp. Tôi nghĩ là với ân tình và duyên đã có, Hòa Thượng sẽ hoan hỷ nhận lời như trước kia Hòa Thượng đã từng nhận lời mà tôi chưa kịp đến.
Ấn tượng thứ chín là khi tôi còn đang Phật sự tại Đại Tòng Lâm, Bà Rịa Vũng Tàu có hay tin về việc các sư cô tắm biển bị chết và mất tích ở Long Hải, Bà Rịa Vũng Tàu vào ngày 22/02/2018. Giờ đây để tưởng niệm về Người, chúng ta hãy đọc lại, nghe lời những lời chia sẻ của Hòa Thượng về tai nạn này để cảm nhận được Bi – Trí – Dũng của Ngài thế nào :
“Việc tắm biển của chư Ni gặp nạn vừa qua đang được dư luận chú ý là điều cũng rất bình thường như bao hiện tượng xã hội khác. Tuy nhiên, việc gặp nạn của các sư cô là việc rủi ro mà bản thân các nạn nhân lẫn lãnh đạo thiền viện không muốn chút nào. Vì thế, chúng ta cũng không cần phải nói năng, trách cứ nhiều nữa mà làm tổn thương đến người gặp nạn cũng như những người chịu trách nhiệm liên quan. Ngay giờ phút này hãy nhất tâm cầu nguyện, xem đó là bài học cuộc sống cho bản thân, dành tình thương về sự mất mát cho những người đồng tu.Dư luận cho rằng người tu hành không được tắm biển thì e là hơi quá! Nếu chúng ta để ý xem việc Tăng Ni tắm biển là đặc thù của một số chùa, tự viện có địa hình gần bờ biển, hoặc có một số Tăng Ni xem việc tắm biển là một hình thức, phương pháp trị liệu, rèn luyện sức khỏe cho bản thân... thì mọi người cũng nên rộng lượng.
Theo tôi, việc tắm biển là một trong những phương pháp rèn luyện thân thể, thay đổi không khí trong quá trình tu tập, chứ không phải ra đó để khoe khoan hình thể, đùa giỡn um sùm. Song, vấn đề đồng ý hay không đồng ý cho Tăng Ni tắm biển thì sau vụ việc này còn cần phải thảo luận nhiều hơn trong lĩnh vực Tăng sự. 
Vấn đề đặt ra ở đây: khi tắm biển là nên chú ý đến hình thức (y phục) và oai nghi (hành động) của người tu phải làm sao đúng phép, phù hợp với vai trò của người xuất gia và một điều đặc biệt nữa là địa điểm tắm (bãi tắm) phải an toàn và có hệ thống cứu hộ kịp thời khi có sự cố….”
Ấn tượng thứ mười và là ấn tượng thao thức, day dứt trong tôi hiện tại và tương lai : Hòa Thượng vốn là Giám Đốc của Trung Tâm Phiên Dịch Phật Học Hán Nôm, tôi cũng đang là Giám Đốc Trung Tâm Phiên Dịch Phật Học Anh Việt. “Ôn cố tri tân”, Quy sơn cảnh sách có dạy : “Họ đã là trượng phu, chẳng lẽ ta không được như thế sao?”. Trong thời mở cửa, tôi được duyên du học Ấn Độ, Hoa Kỳ rồi đi nhiều nơi, nhưng làm sao có thể làm được những gì, đóng góp một cách thiết thực cho văn hóa, học thuật, nghiên cứu, giáo dục Phật Giáo Việt Nam như Hòa Thượng đã làm? Sở dĩ con đặt tựa đề cho điếu văn này là : “Minh Cảnh định tâm – Huệ Quang thường chiếu” là vì Hòa Thượng đã nêu gương : hiểu rõ tất cả các cảnh trần, dù có gì xảy ra cũng luôn định tâm, không xoay chuyển và ánh sáng trí tuệ thường chiếu khắp nơi. Con sẽ sống, hoạt động và tu học theo gương sáng ấy.
Hơn 82 năm trụ thế, 50 hạ lạp, Hòa Thượng đã sống, thị hiện và ban cho rất nhiều rồi cho Đạo, cho Đời. Những gì cần dạy, cần làm, đã làm xong. Chính Đức Phật Thích Ca đén 80 tuổi thì cũng phải tại Câu Thi Na nhập diệt mà nay Hòa Thượng hơn ngần ấy tuổi. Quy luật muôn đời : hoa nở rồi tàn, có hợp ắt có tan, người đến rồi đi trên nhịp cầu sanh tử. Người đã ra đi nhưng người còn ở lại, Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương. Từ dung của Người vẫn in đậm trong khối óc, tình cảm của Người vẫn lắng đọng trong trái tim, pháp nhũ của Người in sâu trong tâm khảm, chí hướng cao thượng của Người : dấn thân, phục vụ, vô ngã, vị tha, đào tạo Tăng Tài, kế vãng khai lai, bao thế hệ đang noi dấu. Người ra đi trong tiếng niệm Phật và mỉm cười nhẹ nhàng, tỉnh thức, yên lặng không còn gì để hối tiếc băn khoăn khi cả cuộc đời, từng giây từng phút sống trọn vẹn ý nghĩa nhất như phù sa mang mật ngọt cho đời. Ngài là một người bình dị, gần gũi, lắng nghe, quan tâm người khác, hiểu tâm lý và trợ duyên cho người khác, mong bao thế hệ học trò của mình giỏi hơn mình vững bước xây dựng đạo nghiệp, làm tốt Đạo, đẹp Đời.

Bạch Hòa Thượng!
Vậy là một lần nữa con đã lỡ hẹn với chén trà tao ngộ, lỡ hẹn với việc phụ trách lớp lịch sử Phật Giáo, ít nhất là khi Hòa Thượng còn chứng kiến được. Kính tri ân duyên tao ngộ, niềm tin tưởng và những ân tình Hòa Thượng dành cho con. Có duyên diện kiến với những bậc vĩ nhân, cao Tăng là phước lành trong cuộc sống, giúp cho con có nhiều ấn tượng, động lực, gương sáng để vững bước đi tới, vượt qua bao nhiêu khó khăn trở ngại để hoằng dương chánh Pháp, mang lợi lạc cho cuộc đời. Có đôi lúc con mệt mỏi muốn bỏ cuộc với việc Giáo Dục Phật Giáo và dịch thuật nhưng nhìn lại tấm gương của Người sống với những công việc thanh cao đến hơi thở cuối cùng mà con còn trì chí, tiếp tục. Rồi mai đây, bao nhiêu người cung kính tiễn đưa nhục thân người trở về tro bụi để tiếp tục nuôi mầm vun bồi cho sự sống mới, con từ phương trời Tây cách nửa vòng Trái Đất lặng lẽ với nén hương kính tiễn biệt Người. Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, tuy xa nhưng không xa, Người vẫn mãi hiện diện và đồng hành, trợ lực cho con trong mọi công việc Phật sự, nhất là dịch thuật và giảng dạy và hành trình dài còn lại để thăng hoa và hướng về bến Giác. Nguyện Giác Linh Hòa Thượng : Hoa Khai Kiến Phật, Thượng Phẩm Thượng Sanh, sớm hồi nhập Ta Bà để tiếp tục sứ mệnh Giáo Dục Phật Giáo, Hoằng truyền chánh Pháp, vững tay tế độ, chèo thuyền Bát Nhã, đưa mọi người qua bề khổ đến bến bờ giải thoát an vui.

Nam mô Huệ Quang đường thượng, tự Lâm Tế Chánh Tông tứ thập thế thượng Minh hạ Cảnh húy Chơn Đài, Nguyễn công Hòa thượng Giác Linh thùy từ chứng giám

Tu viện Đức Sơn, Atlanta, 11/10/2018
Khể Thủ
Hậu học : Thích Đồng Trí.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6440)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9523)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4500)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4357)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6365)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5181)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7665)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6064)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12782)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567