Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Thật Sự Đã Ra Đi

03/10/201820:07(Xem: 6314)
Người Thật Sự Đã Ra Đi

ni su nhu thuy

NGƯỜI 
THẬT SỰ ĐÃ RA ĐI

Thành kính tưởng niệm

Lễ Tiểu Tưởng Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy

  

 

Hôm nay tôi thức dậy sớm hơn thường lệ, lướt nhẹ ngang qua Chánh Điện, vầng đèn hào quang nơi  tượng Phật tỏa ánh sáng thanh tịnh, tôi thấy Phật mỉm cười, nụ cười thanh khiết bình yên như chưa từng biết cuộc đời nầy là nơi chốn của gió bão.

Tâm tư tôi đậm lại những kỷ niệm đã qua. Bên bờ rêu xanh của ký ức, tôi nhớ là gần đến ngày tưởng niệm một năm của Ni Trưởng Như Thủy. Sư Chị Tâm Chánh, Sư Chị Như Bảo và huynh đệ học Ni chúng tôi tại Hoa Kỳ sẽ tổ chức lễ tưởng niệm một năm của Ni Trưởng Như Thủy tại Chùa Huê Lâm, Boston vào  khóa tu học mùa Thu năm nay. Nghĩ đến tự nhiên lòng tôi lại quặn đau, như có một nguồn sống ngầm ray rứt, chớp nhoáng đã một năm đi qua, Người không còn nữa giữa cõi đời ác trược đầy nghiệp chướng nầy.

Tôi lặng lẽ đi từng bước thật chậm, tôi nghĩ đến Người trong niềm âm thầm  đơn độc của buổi chiều vàng tuổi tác, nhớ lại bước chân đã in vết lạ vết quen, trên nhiều lãnh thổ buồn vui khác nhau, Người vô cùng tận tụy kéo vali đi xuyên nhiều tiểu ban trên đất nước Hoa Kỳ, truyền dạy chân lý của Phật Đà. Thế nhưng, trận gió vô thường chưa từng ngưng thổi. Khi Người ra đi, phủi nhẹ hết những công việc cho đời, có lẽ Người mới được thảnh thơi.

Tôi đã ngồi nhìn qua cửa sổ, mây lững lờ trôi; nhìn ngắm tách trà lan tỏa mùi hương của hoa lài và mùi hương trầm hòa quyện; tôi đang uống trà, tôi đang nhìn trăng; tôi đang đi từng bước qua cuộc đời…. rồi cũng chỉ là một tách trà thôi. Một tách trà trong khuya vắng âm thầm tưởng niệm đến Ni Sư Như Thủy, Người đã đi để lại vô vàn những bồi hồi thương nhớ …. Người vẫn luôn ẩn hiện trong ký ức của nhiều người, cho bao thế hệ sau nầy làm nơi tưới tẩm tâm linh trong những bài pháp thoại…. Người có biết không, Sư Tâm Chánh mỗi lần xem lại hình ảnh hay nghe pháp thoại của Người là nước mắt cứ chảy không ngừng.

 

 Một năm trôi qua đã vắng bóng Người….. Huynh đệ của Người còn đó Người biết không? Chúng con còn đây Người có nhớ không? Chỉ còn lại  những kỷ niệm vụn vặt mà thôi. Người đã ra đi một năm rồi, mùa Hạ năm nay chúng con không còn nghe tiếng nói, tiếng cười, hình ảnh của Người cứ mờ dần mờ dần chìm sâu vào hư vô như một làn sương khói mờ trong đêm lạnh.

 

Hẳn trong ký ức của nhiều người, Sư như một người chị, người mẹ kính yêu, rồi sau đó  làm Thầy giáo thọ của chúng tôi …Nhớ lại mùa Hạ năm xưa  tôi được ở chung tòa nhà với Người, lần đó tôi bị chóng mặt không thể tiếp tục giờ học, tôi  trở về phòng ….Người gõ cửa và hỏi tôi sao về sớm vậy?   -“Thưa  Thầy con mệt quá”, người  ân cần hỏi: “Có cần chị giúp gì không?”- “Thưa Thầy con chỉ cần ngủ sẽ khỏe lại thôi”. Thầy trả lời rất hài hước “Vậy thì chuyện ấy chị đành bó tay, you phải tự làm lấy”, nói xong Người khép  nhẹ cửa phòng và từng bước thật nhẹ nhàng đi thiền hành ngoài hành lang.

 

Những lời nói nhẹ nhàng và ấm áp được phát ra từ cõi lòng bình yên và thái độ của Người ban rải một cảm giác dễ chịu, có thể xoa dịu. Khi biểu đạt ra ngoài bằng hành động hay lời nói phù hợp với những gì đang xảy ra trong tâm thì năng lượng của nó sẽ được truyền tải năng lượng an lành, đích thực là liều thuốc bổ giúp nhau mau chóng hồi phục sức khỏe và tinh thần. Tôi lắng nghe từng bước chân của Người và tôi cũng chìm vào giấc ngủ bình yên, đó là lần cuối cùng tôi gặp Người ….

 

Mùa Hạ năm nay và bây giờ Người đã thật sự ra đi rồi, như  một tiếng chuông báo động, nó mất mát rất nhiều…. như mỗi khi chiều về không còn tiếng chuông. Đã bao năm sống trong tiếng chuông, lớn lên trong tiếng chuông, tiếng chuông đã là một phần đời sống của người xuất gia. Bây giờ chỉ còn những bài pháp thoại của Người sót lại. Gói trọn một niềm tin trong giáo pháp. Chỉ còn lại một khoảng trống vô tận. Những tâm hồn đều hướng về người. Như tiếng chuông chiều nghe an ủi, nghe như người vẫn còn ở đây…. 

 

Nhớ năm ấy, trên chuyến đi về hướng Vũng Tàu, cơn mưa phùn chợt đến, bầu trời chiều ảm đạm, những kỷ niệm năm xưa. Lối đi vào Thiền Viện Viên Chiếu thật vắng lặng, hàng cây khuynh diệpcao ngất giữa trời se se lạnh của mùa Đông. Tiếng ve rỉ rả gợi sầu, nó chẳng phá được cái vắng lặng mà càng làm cho nỗi êm ả của buổi tà dương thêm mênh mông. Lá khuynh diệp rơi đầy lối vào hai bên đường, những chú chim bay xào xạc bên những  bụi tre vàng ươm. Khu nhà khách đơn sơ bằng lá dừa ẩn mình sau Thiền đường, xa xa ngoài cánh đồng quê, tôi thích nhất là đi qua những cánh đồng ruộng lúa mênh mông của miền quê. Nghe tiếng chuông chùa vọng lại từ xa  tôi thấy như tâm hồn mình yên bình, nao nao làm sao ấy. Tiếng chuông như có an ủi, vỗ về mà cũng như lời buồn nhắc về một thời bình yên thuở nào.

Đó là lần đầu tiên tôi đến Thiền Viện Viên Chiếu, hôm ấy  thấp thoáng xuất hiện bóng người đi theo lối hai hàng dừa, từng bước chậm rãi đó là Ni Trưởng Như Thủy, Ni Sư Như Đức, Ni Sư Hạnh Huệ, Ni Sư Đồng Kính. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được biết Chư vị. Buổi chiều hôm đó, hình ảnh này in đậm trong tâm trí tôi, nhắc nhở tôi về hình bóng của con người nổi bật luôn tận tụy dạy cho chúng tôi từng bài kinh kệ. Kỷ niệm này ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống tâm  linh của tôi. Nhẹ nhàng giống như cái không gian mờ pha lẫn sương mù những ngày Đông của miền quê.

 

Cái buổi tối hôm ấy của hai mươi năm trước đây, dưới ngọn đèn dầu leo lét huynh đệ chúng tôi ngồi hái đậu phụng, vào dịp cuối năm thu hoạch đậu, ngày thì huynh đệ ra đồng nhổ và gánh đậu về, tối cùng nhau ngồi hái từng hạt đậu, đem phơi khô để ép dầu.

Nhớ, câu chuyện mà Ni Trưởng Như Thủy kể cho chúng tôi nghe đêm hôm đó là một câu chuyện Thiền:

Bạch Lạc Thiên và Thiền sư Điểu Sào. Thiền sư  Điểu Sào hay ngồi thiền trên cây cao có cành lá sum suê ở trong địa phận cầm quyền của Quan huyện Bạch Lạc Thiên. Hôm đó Quan huyện đến quyến thăm Thiền sư và nói: “Chỗ Thầy Ngồi trên cao thật là nguy hiểm”.

Thiền sư đáp: “Chỗ của Quan huyện ngồi còn nguy hiểm hơn nhiều”.

Bạch Lạc Thiên phân trần: “Tôi là quan huyện chỗ ấy đâu có gì là nguy hiểm.” Thiền sư đáp: “Đó là chỗ ông không hiểu mà thôi. Khi lòng tham bừng lên là tâm ông không vững, thì còn gì nguy hiểm hơn”

Bạch Lạc Thiên hỏi Phật Giáo dạy điều gì? Thiền sư tuyên đọc:

Điều xấu phải tránh. Điều tốt nên làm.

Giữ lòng trong sạch. Là lời  Phật dạy.

Họ Bạch phản đối: “Cái đó đứa bé lên ba cũng biết”

Thiền Sư đáp: “Đúng vậy, đứa bé lên ba cũng biết. Nhưng ông lão tám mươi khó làm được”.

Thế nào là hiểu cho được đâu là sự nguy hiểm của việc ngồi thiền trên cây cao và sự nguy hiểm của việc ngồi cao trên quyền chức.

Tất cả những đối nghịch như thế  trong đời thật là khó nói. Câu chuyện Thiền vô ngôn nhưng không phải vì thế mà người ta có thể quên được.

Đó là những gì lưu dấu trong một tháng tôi được tu học tại Thiền Viện Viên Chiếu năm ấy.

 

Người đã đi qua cuộc đời nầy

Người rong chơi trong cuộc đời nầy

Người nằm xuống buồn vui vào lãng quên

Những xót xa đành nói cùng hư không. 

 

 Đến đây nghe mắt mình rưng rưng theo từng nét chữ, bùi ngùi trong nỗi bùi ngùi, thương cho cuộc đời, những con người, những số phận, những vết thương lòng của một đời người lặng lẽ, đơn độc trong cuộc hành trình đi  trên con đường Truyền Đạo.

 

Thời gian vô hình và vô tình vẫn muôn đời làm chứng cho sự thật, vô thường khiến cho con người phải ẩn nhẫn im lặng chịu đựng sự đi qua và tàn phá. Màu sắc một đời người rồi cũng chứa đầy ray rứt như màu thời gian.

Màu thời gian xanh xanh. Màu thời gian tím ngắt” khiến cho người hoảng hốt nhìn lại, không còn vọng động tìm kiếm giữa một thế giới thay đổi. Thoáng một chút sương mù trong tôi, thương tưởng như thế khi thấy lại một cái gì không còn là của ngày xưa nữa, như câu kệ đầy thức tỉnh trong bài kinh cầu chiều nay hiện ra với tất cả hùng lực.

 

“Ngày nay đã qua rồi. Mạng sống giảm dần.

Thời gian lại hết.Ta hãy nhìn lại. Mình đã làm gì.”

 

Không ai có thể đưa tay níu lại thời gian để giữ cho mình không thay đổi. Thôi hãy hài lòng chấp nhận và thảnh thơi sống với thực tại. Đó là cách tìm sự an tâm trước mọi đổi thay.

 

Trong đời sống nầy, người ta không chỉ dễ dàng buồn đau vì sự tàn phá cay nghiệt của thời gian mà còn đắm chìm trong tủi khổ của cái tâm phân biệt, chẳng biết đâu là đường đi nẻo về, là ý nghĩa của cuộc sống.

 

May mắn lớn nhất trong cuộc đời tôi là đã gặp được những bậc Thầy vô cùng đáng kính. Khi nhận ra con đường mình cần phải đi, nhưng rồi tôi lại loay hoay tìm kiếm những điều kiện đơn thuần, với nhiều hình thức bên ngoài. Đó cũng là ý nghĩ hướng ngoại, khi đối diện với rào cản của phiền não quá lớn. Thế nhưng, cuộc sống hoàn toàn có thể làm được giữa cuộc sống có nhiều sự chi phối. Ngược lại, tôi thường đem tâm của mình về  một khuôn khổ đúng đắn, dẫn dắt nó đi đúng hướng và biết dừng lại đúng lúc.

 

Sáng nay, tôi hạnh phúc vì có vài kỷ niệm với Ni Trưởng Như Thủy. Qua từng lời dạy và cách sống của Người là sức mạnh nâng niu tôi từng bước đi tới. Người  bước can trường trong thánh thiện, có thể đời Người  cũng có lúc lẻ loi. Nhưng Người  đã đi trọn đời bằng những bước chân vô cùng kiêu hùng. Và tôi biết, vì thế giới bình an của Người là Người luôn dành cho thế hệ mai sau. Cuộc đời Người lại đốt cháy những ý nghĩ nhỏ nhoi trong tâm hồn nhỏ bé của tôi.  

  

 Người luôn có tấm lòng nhẫn nại bao dung trải rộng tới mọi người. Trong cuộc đời lý tưởng, Người là ngọn nến cháy mãi để sưởi ấm những trái tim bị thương tổn. Những gì mà Người đã để lại cho đời. Người sống với đời bằng trái tim tràn đầy yêu thương. Tất cả như một sợi dây vô hình, nhưng rất đổi kỳ dịu đủ sức vượt qua thử thách. Con người cần hiểu nhau hơn, xít lại gần nhau hơn, khiến cho mọi người cảm thấy ấm lòng, cho đi yêu thương  chắc hẳn sẽ nhận lại tiếng cười hạnh phúc. Đó là thông điệp cho cuộc sống. Cuộc đời và kiếp người chung quy chỉ là mộng. Tám ngọn gió thế gian đã  không ngừng thổi trên những cánh nhạn đã chọn lối về lặng lẽ…Đã đến giờ Người phải ra đi. Người  đã chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Cánh cửa  nơi cõi Tây rộng mở chờ người bước vào.

 

 

Las Vegas, Mùa Thu, October – 01-  2018

Thích Nữ Tâm Vân







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2012(Xem: 20420)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6245)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8629)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5707)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19252)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9587)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6074)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6860)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6331)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
21/03/2012(Xem: 6447)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]