Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Thiện Minh (1969-2018)

25/07/201822:01(Xem: 5927)
Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Thiện Minh (1969-2018)
 

TT Thich Thien Minh-22

TIỂU SỬ

CỐ THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN MINH
(1969 - 2018)



- Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN
- Phó Trưởng ban Từ thiện Xã hội Trung ương GHPGVN
- Ủy viên Thường trực Ban Phật giáo Quốc tế Trung ương GHPGVN
- Ủy viên Ban Trị sự GHPGVN Tp. Hồ Chí Minh
- Ủy viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương
- Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN quận Thủ Đức
- Thư ký kiêm Quản sự Tổ đình Bửu Quang

1. Thân thế
Thượng tọa Thích Thiện Minh, thế danh Nguyễn Văn Sáu, sinh ngày 15/11/1969, tại xã Hòa Ninh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long trong một gia đình có nhiều tín tâm đối với Tam Bảo, giàu lòng yêu nước.

Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Ba, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Tại. Thượng tọa lớn lên trong một gia đình có chín anh em luôn yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Ngài là người con thứ sáu và rất hiếu thảo với cha mẹ, tính tình hài hòa cũng như nhanh nhẹn trong mọi công việc. Đặc biệt, từ thuở nhỏ, Thượng tọa rất hiếu học.

2. Thời kỳ xuất gia tu học
Sống trong một gia đình đầm ấm và có truyền thống theo Phật giáo Nam Tông. Từ nhỏ, Thượng tọa đã được tiếp cận với Phật giáo và được người chú của mình là Đại đức Thiện Hữu dẫn dắt chí nguyện xuất gia. Khi mới 9 tuổi, cậu bé Sáu đã rời xa vòng tay bảo bọc của Cha Mẹ, theo Sư chú lên Sài Gòn sống tại chùa Nam Tông, Tịnh xá Ngọc Đạt, chùa Giác Quang.

Vốn sẵn có túc duyên sâu dày với Phật pháp, khi vừa tròn 10 tuổi, vào năm 1981, cậu bé Nguyễn Văn Sáu xuất gia làm Sa di tại chùa Nam Tông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh và được ban pháp danh Thiện Minh (Suvijjo). Ngài theo học đạo tại chùa Nam Tông, chùa Giác Quang.

Đến năm 1991, Ngài thọ giới Tỳ kheo với Hòa thượng Tăng trưởng Thích Siêu Việt tại chùa Kỳ Viên, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh và được ban Pháp danh Tỳ khưu Siêu Minh.

Năm 1995, Ngài tốt nghiệp Cử nhân Khoa học tại trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1997, Ngài tốt nghiệp Cử nhân Phật học Học viện Phật giáo Việt Nam khóa III.

Năm 2012, Ngài tốt nghiệp Tiến sĩ Đại học Apollos Hoa Kỳ.

Năm 2006 đến nay, Thượng tọa Thiện Minh tham gia công tác giảng dạy ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại Cần Thơ, Hà Nội, Hồ Chí Minh; và các trường Cao đẳng Phật học.

Năm 2015, Ngài được phong hàm Giáo sư, Đại học Apollos.

3. Thời kỳ hành đạo
Thực hiện chí nguyện tác Như Lai sứ - hành Như Lại sự vào năm 2003, Thượng tọa được ban Quản trị suy cử làm Thư ký kiêm Quản sự tổ đình Bửu Quang.

Năm 2006, Thượng tọa cùng với Đại đức Minh Tấn phục hồi lại ngôi Tam bảo Bát Chánh Đạo của HT Thiền sư Giới Hương tại P.Tam Bình, Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2007, nhiệm kỳ 6, Giáo hội Phật giáo Việt Nam suy cử Thượng tọa vào chức vụ Ủy viên Hội đồng Trị sự kiêm Phó ban Từ thiện Trung ương. Thượng tọa giữ chức vụ này cho đến nay.

Năm 2007, nhiệm kỳ 6, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TPHCM suy cử Thượng tọa vào chức vụ Ủy viên Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2009, Thượng tọa cùng với Thượng tọa Tường Quang xây dựng chùa Đại Lộc, là ngôi chùa của hệ phái Theravāda Việt Nam tại đất Ấn Độ.

Năm 2010, Thượng tọa thành lập chùa Đức Hòa tại Hà Nội.

Năm 2011, Thượng tọa thành lập ngôi Thiền viện Thiện Minh tại quê nhà xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Năm 2012, Thượng tọa về tiếp nhận trụ trì chùa Thanh Long tại Bình Dương.

Năm 2014, Thượng tọa thành lập Thiền viện Bồ Đề tại Vũng Tàu.

Năm 2015, Thượng tọa về tiếp nhận Trụ trì Thiền viện Phước Minh cũng trong năm này, Thượng tọa chính thức thành lập chùa Giác Hoàng tại Bình Dương.

Năm 2012 tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Quận Thủ Đức, Thượng tọa được suy cử chức vụ Phó trưởng ban Thường trực Ban Trị Sự GHPGVN Quận Thủ Đức, nhiệm kỳ VIII (2012 - 2016).

Năm 2016, Thượng tọa đắc cử Đại biểu Hội đồng nhân dân Quận Thủ Đức nhiệm kỳ 2016-2021

Năm 2016, Thượng tọa thành lập chùa Đại Phước tại Miến Điện và chùa Đại Hạnh tại Camphuchia

Cũng trong năm này, Thượng tọa cùng với Đại đức Minh Tấn thành lập chùa Đại Thọ tại Phần Lan.

Năm 2012, Ngài được suy cử Trưởng ban Từ thiện Phật giáo Nam tông, nhiệm kỳ 2012-2017.

Cuối năm 2017, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc, nhiệm kỳ VIII (2017 - 2022) Ngài được tấn phong Giáo phẩm Thượng tọa.

Năm 2018, Thượng tọa thành lập chùa Đại Hóa tại tỉnh Thanh Hóa,

Trong suốt quá trình hoằng pháp, Thượng tọa đã thuyết giảng ở nhiều đạo tràng trong và ngoài nước với hàng trăm bài giảng đã được in thành sách, quay video, ghi âm phát hành rộng rãi; biên soạn và soạn dịch nhiều tác phẩm trong kinh điển cũng như những tác phẩm thiết thực cho cuộc sống. Ngàitrụ trì 7 ngôi chùa trong nước, làm viện chủ 4 ngôi chùa quốc tế, và cùng tham gia điều hành nhiều ngôi chùa ở các tỉnh thành. Ngoài ra, Thượng tọa đã sáng lập ra Tạp chí Phật giáo Nguyên Thủy và giữ chức Phó tổng Biên tập kiêm Thư ký tòa soạn; chủ nhiệm Trưởng ban Biên tập website phatgiaonguyenthuy.com, vietnambuddhistsangha.vn; sáng lập Thư viện Phật giáo Nguyên Thủy;Chủ tịch quỹ học bổng Theravāda; đồng sáng lập quỹ Ấn tống Trí Tuệ; Chủ tịch Hội từ thiện Hương Minh Hiểu,

Trong sự nghiệp hoằng hóa lợi sinh, Thượng tọa đã để lại trong lòng Tăng Ni, Phật tử những hình ảnh thân thương, từ hòa khả ái, trẻ tuổi nhưng tràn đầy nghị lực, hướng tâm vì Phật pháp, Thượng tọa đã dang đôi tay từ hòa hóa độ hàng trăm Tăng Ni, Phật tử trong nước lẫn ngoài nước và có những vị đã thành tựu sở học, ra hành đạo và Trụ trì các chùa. Đối với hàng Phật tử tại gia, Thượng tọa là người tận tụy hướng dẫn tham gia các công tác Phật sự đặc biệt là công tác từ thiện xã hội và văn hóa Phật giáo.

Trong quá trình điều hành Tổ đình Bửu Quang với tư cách là Thư ký kiêm Quản sự, Thượng tọa đã làm cho ngôi tổ đình ngày một khởi sắc.

Với những công đức đã đóng góp cho Giáo hội và hệ phái Nam tông Kinh, Thượng tọa đã được nhiều bằng khen, giấy khen của Giáo hội và Nhà nước.


4. Những ngày cuối đời.
Với hoài bão hoằng dương Phật pháp, Thượng tọa sẵn sàng xả tài kể cả sức lực để thành lập nhiều ngôi chùa ở khắp nơi trong nước và ngoài nước. Tuy chí nguyện khôn cùng nhưng sức lực có hạn, vào tháng 5 năm 2017, Thượng tọa Thiện Minh đã kiệt sức và thọ bệnh. Mặc dù đã được các y bác sĩ cứu chữa , trải qua 14 tháng, Thượng tọa đã thuận thế vô thường, thu thần viên tịch vào lúc 17 giờ 30, ngày 21/7/2018 (nhằm ngày 9/6 Mậu Tuất) trong tiếng tụng kinh cầu nguyện của Chư tôn đức tăng và môn đồ đệ tử với 49 năm trụ thế, trải qua 27 mùa an cư kiết hạ.

“Hạc vàng nay đã bay xa,
Thiền môn tứ chúng lệ nhòa trong tâm”

Sự ra đi của Thượng tọa là niềm thương tiếc vô hạn của Giáo hội, là sự thiếu vắng một pháp lữ đồng hành trong Chánh pháp, là sự mất mát vô cùng lớn lao của tông phong Phật giáo Nam Tông. Môn đồ hiếu quyến từ đây vĩnh viễn không sao tìm lại được một bậc thầy từ hòa khả kính.

Môn đồ pháp quyến, đệ tử kính ghi lại đôi dòng Tiểu sử của Thượng tọa Thiện Minh. Kính nguyện giác linh Thượng tọa thùy từ chứng giám.

Thủ Đức, ngày 23 tháng 7 năm 2018

http://phatgiaonguyenthuy.com/…/tieu-su-co-thuong-toa-thich…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7169)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4207)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4832)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5601)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6199)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3828)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5257)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5331)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12971)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11541)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567