Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện Tình Duyên Khởi

24/07/201817:49(Xem: 4392)
Chuyện Tình Duyên Khởi
Su Thich Thien Minh-8CHUYỆN TÌNH DUYÊN KHỞI

(Cảm niệm một huynh đệ vừa viên tịch là Thượng tọa Thiện Minh)


Thuở ấy thanh xuân, chàng trai phải lòng yêu nàng thôn nữ. Nàng tuổi trăng tròn, dịu dàng, duyên dáng. Tình yêu nồng nàn dâng tràn cảm xúc, đôi lứa như hoa như bướm ngày xuân. Nhiều hôm lãng mạn khôn cùng, chàng hát ra câu ca vọng cổ tặng nàng...
“Trăng nước thanh thanh tình anh dõi bóng, con gái bà sáu Cát làng trong có thấu hiểu cho...lòng...”
Rồi theo tiếng gọi non sông, chàng vào quân ngũ đền ơn nước. Giữa khói lửa chiến chinh, bóng người xưa dần khuất nhạt nhoà. Ra đi chẳng hẹn ngày về, khi nối lại tin thì thuyền tình đã tìm bến đỗ, nàng lưng cõng, tay bồng, chân dẫn con thơ.
Đời chẳng đẹp như mơ, 
Tình muôn thuở như thơ. 
Đường tơ duyên dường đã đoạn, mà đời người duyên vẫn nối duyên. 
* * * * * *

Chiến tranh càng lúc càng ác liệt, không rõ sống chết lúc nào. Cha mẹ lo sợ vĩnh viễn mất đứa con Út trong thời chiến loạn, ông bà muốn chàng lấy vợ sanh con, một mai hy sinh vẫn còn hậu nhân thờ phụng tông đường. Dù sao, tơ duyên với nàng đã đoạn, chàng thuận ý cha mẹ, nên tìm cho mình một mối lương duyên. 
Đến khi chiến tranh đi qua, hoà bình lập lại, chàng bỏ súng đạn về bồng bế con thơ với tình thương vô bờ...Tưởng hoà bình đẹp như mơ, nào ngờ đời chàng bơ phờ...Bị đi học tập cải tạo một thời gian, sau đó cuốn vào chung vòng nghiệt ngã của dân tộc. 
* * * * * *

Nhiều năm sau, một người con trai của chàng xuất gia thành tu sĩ Phật giáo. Chú bé được ban pháp danh là Trí Quảng.
Trong đời sống tu viện, Sư Trí Quảng tình cờ quen một Sư lớn hơn vài tuổi, thường gọi Sư Sáu, pháp danh Thiện Minh. Qua cuộc trao đổi thăm hỏi, hai Sư trẻ mới biết họ xuất xứ đồng hương. 
Điều bất ngờ hơn, Sư Trí Quảng nghe Sư Thiện Minh nhận là cháu ngoại bà Sáu Cát, giống tên người trong câu ca mà thời thơ ấu Sư từng nghe cha hát vào vài lần trà dư tửu hậu với những bè bạn thâm niên :
“Trăng nước thanh thanh tình anh dõi bóng, con gái bà sáu Cát làng trong có thấu hiểu cho...lòng...”
* * * * * *

Ngày nọ, vào dịp đại lễ ở chùa, chàng cùng vợ đến chùa lễ Phật. 
Tình cờ, chàng gặp một phụ nữ trung niên đi bên cạnh phụ nữ khác, tóc bà hoa râm, vóc dáng mảnh khảnh, gương mặt và ánh mắt hao hao một người. Thoáng chút bỡ ngỡ, chàng mạnh dạn lên tiếng: 
- “Chào chị!”...
Khi bắt chuyện, hoá ra chị là nàng của ngày xưa. Nàng kể, em chồng xuất gia đã hướng dẫn con trai nàng đi tu, và nàng chỉ: 
- “Sư Sáu nhà tui đó. Sư Thiện Minh đó”
Chàng hướng nhìn về phía chư Tăng đang ngồi xa xa, nhưng mắt chàng nhìn thấy ai đó xa xăm với lời ca văng vẳng trong hư vô:
“Trăng nước thanh thanh tình anh dõi bóng, con gái bà sáu Cát làng trong có thấu hiểu cho...lòng...”
- “Anh thấy không?”
Nghe tiếng hỏi, chàng giật mình. Giây lát định thần, chàng nhìn con của nàng, rồi nhìn con của chàng. Cả hai bây giờ đủ nhân duyên thành con của Phật. Chàng khẽ gật đầu, miệng nở nụ cười nhẹ nhàng...
Gió nhè nhẹ...
Lá rơi rơi...
* * * * * *


Su Thien Minh
sinh vien van hanh khoa 3

Giá như thuở ấy, chàng và nàng nên duyên chồng vợ, vẹn nghĩa sắc cầm, vĩnh kết đồng tâm, bách niên giai lão, thì ai sanh ra trong cuộc hôn nhân đó? Nếu hai người chưa lâm cảnh trái ngang, chưa nếm trải sầu thương ly biệt người yêu, biết Sư Thiện Minh và Sư Trí Quảng có mặt chăng? Thế nhưng, đạo lý duyên nghiệp không dành cho những điều giả sử, giả thiết, giả định. Bởi, nhờ tình duyên ngang trái, thuyền tình nàng sang bến lạ, nàng mới sanh được người con là Sư Thiện Minh; còn chàng tìm mối lương duyên chồng vợ với người khác nên đón được người con là Sư Trí Quảng chào đời. Chắc chắn trường hợp đó không phải do thượng đế nào an bài. Chỉ có thể được giải thích qua lăng kính Phật giáo về đạo lý Duyên Khởi, Duyên Sinh, tức là điều gì có mặt hay không có mặt đều do điều kiện đủ hợp tạo, hay chưa đủ điều kiện phát sinh. 
Chữ duyên ấy được Đức Phật lý luận theo cả hai chiều xuôi và chiều ngược: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt.”
Một điều lạ khác, chuỗi nhân duyên đẩy đưa con chàng và con nàng trở thành hai nhà Sư thuộc truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy. Chắc hẳn họ có cùng cộng nghiệp và biệt nghiệp trong quá khứ dẫn đến sanh ra cùng đất nước, cùng xứ sở, tu cùng một truyền thống Phật giáo Nguyên Thuỷ, nhưng trong hai gia đình khác nhau. Từ cộng nghiệp và biệt nghiệp quá khứ, họ tiếp tục hành trình nhân sinh tạo ra những cộng nghiệp và biệt nghiệp trong hiện kiếp. 
* * * * * *

Hơn 36 năm trôi qua, hai Sư trẻ cùng bước trên đường tu Phật.
Trong cộng nghiệp chung của đất nước, dân tộc Việt Nam, có biệt nghiệp của từng cá nhân. Biệt nghiệp ấy đẩy đưa Sư Trí Quảng rời xa Việt Nam những 20 năm lập nghiệp bút nghiên đèn sách xứ người, và hội nhập vào cộng nghiệp của dân Việt tỵ nạn cộng sản mưu cầu kiến tạo một Việt Nam tự do, dân chủ. 
Trong khi đó, biệt nghiệp của Sư Thiện Minh là vẫn ở Việt Nam để thực hiện những hoài bão, ước mơ nào đó. 
Mỗi người chia chung cộng nghiệp, nhưng có biệt nghiệp kết hợp lý tưởng hiện tại hình thành lối sống và hoàn cảnh sống khác nhau. 
Sư Thiện Minh và Sư Trí Quảng vẫn là bạn tốt. Tốt vì những kỷ niệm thân mến thuở còn học chung tại Học Viện Vạn Hạnh, trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, khoá III, những lần chia sẻ Phật sự độ sanh. Tốt vì chúng ta không từng gây khổ hại nhau. Tốt vì đường ai nấy đi, dù khác lý tưởng nhưng lòng giữ hạnh người tu an lành, không chất chứa oán ghét, hận thù. 
Giây phút biết tin “Thượng toạ Thiện Minh viên tịch” sau thời gian trị bệnh, Sư Trí Quảng nhiếp tâm quán pháp vô thường và thầm chúc lành Sư Thiện Minh xả bỏ ngũ uẩn giả tạm để ra đi theo thiện nghiệp đã làm.
Chúng ta đến với thế gian do duyên nghiệp, cũng minh chứng cho đạo lý duyên nghiệp tồn tại như một quy luật tự nhiên. Nói cách khác, không có thượng đế, thần linh hay đấng tạo hoá, chỉ do nguyên lý Duyên Khởi, Duyên Sinh quyết định sự có mặt, tồn vong của cá nhân và vũ trụ.
* * * * * *

Khi nhắm mắt lìa đời
Ngũ uẩn đang rã rời
Bao nhiêu năm hiển thế
Cho một lần hoá pháp vô vi.

(Tỳ kheo Trí Quảng)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5397)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5849)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6838)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5850)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10231)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8260)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13381)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5585)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13367)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6367)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567