Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Cảm Tạ

13/07/201810:42(Xem: 10178)
Lời Cảm Tạ

an-cu-ky19-day4-qua-duong-kinh-hanh-72

LỜI CẢM TẠ

 

Hôm nay là thứ năm, ngày 12 tháng 7, năm 2018. Con được phước duyên về lại Tổ Đình Pháp Hoa dự kỳ An Cư tùng hạ thứ 19. Lúc này là giờ chỉ tịnh, mọi người đang nghỉ ngơi trước buổi công phu chiều. Con nhớ lời Sư Ông dặn trong giờ tảo thực sáng nay, mặc dù môn văn của con lúc nào cũng là môn thấp điểm nhất, và gia đình con luôn đồng ý với nhau là con viết văn rất tệ. Nhưng vì con cảm nhận được lòng từ bi của chư Tôn Đức cho giới cư sĩ tại gia chúng con được thực hành hạnh xuất gia trong mười ngày, nên con muốn dùng hết tấm lòng của mình để viết lời cảm tạ quý Ngài.

Con rón rén bước xuống giường, dứt khoát bỏ lại sau lưng cái túi ngủ màu xanh da trời vừa êm vừa ấm, chiến thắng được lòng ham ngủ của con một lần. Cô Diệu Hòa ở Sydney cổ động tinh thần cho con nên mạnh tay xé cho con ba tờ giấy trắng, hàng kẻ ngay ngắn, kèm theo một cây viết màu xanh. Cô nói: “Con cứ đi xung quanh sân chùa, ngắm nhìn lên bầu trời mùa Đông tháng bảy xanh biếc của Adelaide, con sẽ biết viết lời cảm tạ. Thôi, đi đi con.”

Con ngoan ngoãn bước đi, rất tin vào lời cổ vũ của cô. Con bước ra khỏi Đoàn Quán, giờ là chỗ nghỉ ngơi của cư sĩ đến từ phương xa về dự mùa An Cư. Con nghe tiếng Niệm Phật dưới chân một bức tượng cao lớn. À, thì ra là Đức Phật A Di Đà. Dưới chân Ngài là một chậu hoa lớn do chị Trúc Lâm bỏ hết tấm lòng, lựa chọn những cành lan màu vàng và trắng, xen lẫn với nhiều loại lá cây lớn nhỏ khác nhau. Xen kẽ tiếng Niệm Phật là tiếng róc rách từ hai dòng nước của con suối đá nhỏ cách không xa. Đây là Tháp Tam Bảo. Con nhìn thấy đứng bên cạnh con là cư sĩ Chúc Bảo Thanh đang lễ bái Đức A Di Đà. Con nhớ lại những buổi sáng trời mưa giá lạnh, chị cũng vẫn dừng lại nơi này lễ bái trước khi tiếp bước đến Chánh Điện cho thời công phu sáng Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Chị mỉm cười với con, không ai nói lời gì rồi đường ai nấy đi

Con tiếp tục rảo bước ra hướng cổng Chùa. Sát bên cổng Trai đường là cây dương liễu lá vàng rũ xuống. Con nhìn sang những cây gần đó, một vài cây rụng hết lá, chỉ còn trơ cành. Những cây khác thì đong đưa trên nhánh gầy guộc vô số trái tròn đen với nhiều gai nhọn xung quanh. Con chợt nhớ đến quê nhà Việt Nam và những vườn trái chôm chôm màu vàng và đỏ tươi. Rồi không thể không so sánh và con bất giác nghĩ thầm, “mùa Đông ở đây thật  thê thảm.”

Con tự hào vì giới cư sĩ về đây an cư và đem theo nắng ấm của phương Bắc, như dải nắng vàng rực rỡ đang trải lên những đọt cây đứng sát nhau thẳng hàng dọc theo Trai đường. Trên cổng vào có đề bốn chữ Duy Tuệ Thị Nghiệp. Con nhớ bài giảng ngày đầu tiên của Thầy Hóa Chủ về nghi thức thọ trai, Từ Bi và Trí Tuệ.

Gió của Adelaide lạnh buốt, thổi bay qua những hàng dây mang rất nhiều lá cờ Phật Giáo, nhiều như số cư sĩ chúng con về đây vậy. Mỗi người đều mang trong mình những Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Con bỗng thấy vui quá. Theo lời Thầy nói thì chúng con đang được ở Tây Phương, bao nhiêu là món ngon mỗi ngày, bao nhiêu lời kinh Sám Hối, và bao nhiêu lời thuyết pháp là sự dạy dỗ tận tình chu đáo từ tình thương yêu như người cha, người mẹ muốn dạy dỗ cho con. Có phải đây là pháp vị không? Chúng con ngồi im như muốn khắc ghi từng câu từng chữ. Nhưng khi đặt lưng xuống ngủ thì ngày hôm sau lại quên hết. Quý Thầy lại phải nhọc nhằn thay nhau nhắc nhở chúng con, như người mẹ chưa từng dừng yêu thương đứa con dại.

Một cánh chim nhỏ chợt bay qua bầu trời và lướt qua dãy cờ Phật Giáo. Con muốn nhắm mắt lại lắng nghe tiếng chim hót và nhớ về câu chuyện cổ tích ngày xưa, luôn mơ ước sẽ được hiểu được những câu chuyện của chúng. Con nhớ lời Thầy về Ngũ thú tạp cư địa, thân người rất khó được, Phật pháp rất khó gặp. Thầy ơi, con thấy hạnh phúc quá.

Tiếng kẻng báo giờ thức chuẩn bị cho Thủy Sám Pháp. Con thấy những tà áo lam nối tiếp nhau về một hướng. Con vẫn chưa suy nghĩ được cách nào để bày tỏ lòng tri ân cho niềm hạnh phúc an lạc  con đang được thọ hưởng lúc này trong khuôn viên Tổ Đình Pháp Hoa mùa An Cư kỳ 19. Hay là, con sẽ tiếp nối dòng áo lam, ngồi trang nghiêm trong Chánh điện, cung kính chp tay để chiến thắng bệnh ngủ gục của con. Con sẽ lắng lòng nghe tiếng chuông ngân, theo từng tiếng mõ, lời kinh. Con sẽ nhớ lời Thầy dặn, tuy lời Kinh Sám có hay, con cũng nên giữ lòng khiêm cung, đọc kinh đừng lớn tiếng quá và lấn át luôn tiếng của Thầy chủ lễ nghe con.

 
Viết tại trường Hạ Pháp Hoa kỳ 19
Ngọc Trân - Brisbane
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 8503)
Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Tác giả mang ơn sâu đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát vì các công trình nghiên cứu và dịch thuật của hai thầy mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo; và đối với bổn sư tác giả là Thiền Sư Thích Tịch Chiếu. Tác phẩm này được đặc biệt dâng tặng tới các thế hệ trẻ, và phổ quát dâng tặng cho tất cả chúng sinh.
16/12/2010(Xem: 5636)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 9372)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 6012)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 26708)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 11047)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 8054)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 8000)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]