Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Phật Tử Quảng Hạo

26/06/201809:21(Xem: 5343)
Tiểu sử Phật Tử Quảng Hạo

quang tu van
Sơ lược đôi nét

Phật Tử QUẢNG HẠO – PHẠM VIẾT VÂN

Bút hiệu Quảng Từ Vân

(1943 – 2018)

 

 

Phật tử Quảng Hạo, thế danh Phạm Viết Vân, bút danh Quảng Từ Vân. Ông là một Phật tử thuần thành, không những bản thân Ông mà Ông còn hướng dẫn gia đình sống đời tín tâm với Tam Bảo.

Phật tử Quảng Hạo sinh năm Quý Mùi, 1943, vì thời thế tao loạn nên trong giấy tờ lấy ngày sinh là 10.4.1949. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Phật giáo tại miền Trung, Tam Kỳ, Quảng Nam Việt Nam. Thân sinh là cụ Ông Phạm Viết Bạn, thân mẫu là cụ Bà Võ Thị Quyên pd Quảng Thiệp.

Từ thời niên thiếu, Ông đã mến đạo, vào chùa Hòa An, thị xã Tam Kỳ Quảng Nam, lạy Thầy Bổn Sư là HT Thích Minh Thể (1900-1964) sống đời sống xuất gia, được Thầy ban pháp danh là Quảng Hạo.

Năm 1964 – 1967, Ông vào Nam tham học, lưu trú và tu học tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm. Trong thời gian này, Ông có nhân duyên được đồng chúng Huyền Trang như quý Đại Đức Như Tín, Bảo Lạc, Thiện Trí, Ngộ Hạnh, Minh Thiền, Như Tạng… Trong đó có HT Thích Bảo Lạc, một bậc Thầy Ông hằn ghi tâm tôn kính.

Ban Giám Đốc Viện Phật Học Huệ Nghiêm lúc bấy giờ là HT Bửu Huệ, HT Thiền Tâm và HT Thanh Từ. Cho tới năm 1967, vì thời cuộc chiến tranh càng gia tăng, kinh tế khó khăn, Viện Huệ Nghiêm tạm thời giải tán. Tăng sinh bổn viện phân tán nhiều nơi theo khả năng và tâm nguyện. Trong số có 6 huynh đệ chung cùng chí hướng quyết định ra thành lập Lưu Học Xá Huyền Trang như ĐĐ Như Tín, Bảo Lạc, Thiện Trí, Ngộ Hạnh, Quảng Hạo, Minh Thiền; để tiếp tục vừa học vừa hành đạo.

Năm 1967 Ông đậu Tú Tài 1, năm 1968 đậu Tú Tài 2.

Cuối năm 1967 đến năm 1971, Tiếp nối vai trò Hiệu Trưởng của Thầy Thiện Trí, Ông làm Hiệu trưởng Trường Tiểu Học Bồ Đề Hạnh Đức (ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình, Gia Định)

Trong thời gian này, Ông vẫn dạy tại các trường Bồ Đề Huệ Quang - chùa Huỳnh Kim Gò Vấp, Bồ Đề Hạnh Đức – Chùa Phổ Hiền, Tân Bình. Trường Hạnh Đức lúc này do HT Tâm Thanh làm Giám Đốc, Thầy Thiện Trí làm hiệu trưởng.

Từ năm 1972 – 1975, Ông làm Hiệu Trưởng trường Bồ Đề Quảng Đức.

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Ông cùng hàng loạt tu sĩ Phật Giáo trở lại cuộc sống thế tục.

Những năm đầu sau biến cố, cả đất nước lâm vào sự nghèo đói. Nhưng Ông vẫn cùng gia đình, mỗi năm vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, vâng lời Phật dạy, cung thỉnh chư Tăng về tư gia như pháp cúng dường. Đó cũng là dịp cho quí huynh đệ tu xuất gặp lại nhau.

Ông cùng một số thân hữu chúng Huệ Năng cố gắng duy trì nếp sống tri ân Thầy Tổ, mỗi năm về lại Phật Học Viện Huệ Nghiêm thắp hương cầu nguyện, chúc Thọ Thầy Viện Trưởng, cũng như cúng dường Tam Bảo.

Vì nhận thức rõ đời sống khắc nghiệt của chế độ hiện tại. Ông cùng người bạn đời là Phật tử Diệu Vinh, quyết tâm cho các con học nên người. Không đủ nhân duyên theo đường vượt biển, Ông và Bà quyết tâm hướng các con học hành để một ngày xuất ly du học. Hiện nay 3 người con của Ông đều đã du học và định cư tại Úc.

quang_tu_van2

Những ngày tháng ở tại Việt Nam, lúc nào Ông cũng tâm niệm hướng về Tam Bảo, cúng dường in Kinh tạo tượng, giúp đỡ hộ trì Tăng sinh trẻ, hết mình với quí anh chị em GĐPT chùa Hưng Quốc, chùa Khánh Vân Quận 11 và các Gia đình Phật tử khác. Mỗi chủ nhật Ông tham dự các đạo tràng để vừa tu học vừa hướng dẫn quí bạn Phật tử lớp sau. Nơi nào cần, Ông và gia đình đều phát nguyện góp phần công đức.

Ông còn là tác giả của Thi tập Gửi Hương Cho Đất, trong đó có bài thơ Phật Về đã được nhạc sĩ Vũ Ngọc Toản phổ nhạc, ngày nay được gieo duyên phổ biến thịnh hành trong làng nhạc Phật Giáo.

Ông và Đạo hữu Diệu Vinh cùng đoàn tụ gia đình tại Úc vào năm 2014. Qua quê hương thứ hai, Ông và Bà vẫn tiếp tục công phu hành trì theo thời khóa đều đặn của người Cư Sĩ. Ông không để phí thời gian, mỗi ngày gieo duyên với tiếng Phạn. Dù sức khỏe yếu, Ông vẫn tự học qua tài liệu của Giáo Sư Lê Tự Hỷ và Quách Nhiên Trần. Một tuần trước khi đi, Ông đã viết được bài Kinh Bát Nhã bằng tiếng Phạn. Ông Bà vẫn lấy việc cúng dường Tam Bảo, tu học Phật Pháp làm niềm vui sống. Đặc biệt Ông rất thiết tha kính quí ân đức của HT Phương Trượng Chùa Pháp Bảo thượng Bảo hạ Lạc.

Vào một chiều mùa đông ngày 22.6.2018 tại Sydney, sau thời Khóa tụng Kinh chiều, học tiếng Phạn, thăm hỏi chuyện trò với gia đình như thường lệ, Ông đã an tường xả báo thân vào lúc 4.15phút vào thời nghỉ ngơi trong ngày. Ông đã được HT Thích Bảo Lạc, TT Thích Phổ Huân, chư Ni sư Huệ Khiết, Như Như khai thị. Quí Ni Sư, SC An Hiếu, SC Tịnh Hiển, gia đình và quí bạn hữu Phật hộ niệm gần 10 tiếng đồng hồ.

Tang lễ của Ông được trang trọng diễn ra tại Sydney dưới sự từ bi thương tưởng chứng minh của Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni mà Ông hằn cung kính, và quí vị cư sĩ Phật tử thân hữu gần xa. Nơi quê nhà, Lễ Truy Điệu cho Ông cũng được Chư Tôn Đức, quí thiện hữu tri thức, GĐPT, gia đình các cháu Nội, Ngoại tụng Kinh, thăm viếng… tại Sài Gòn và Tam Kỳ Quảng Nam.

Cuộc đời của Cố Cư sĩ Quảng Hạo Phạm Viết Vân là hình ảnh một đời phụng sự tín tâm với Tam Bảo. Ngày ngày vui với Kinh kệ và pháp Giải Thoát. Niềm tin “Phật Về” của Ông sẽ sớm viên thành như sở nguyện.

Nam mô A Di Đà Phật.

* Tiểu sử này, được sự từ bi chỉnh sửa của HT Pháp Bảo, và các conđồng phụng soạn theo những lời kể hiếm hoi của Ông.
Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.



Ý kiến bạn đọc
26/06/201812:47
Khách
Được tin thân phụ của Sư Cô Thích Nữ Giác Anh đã mãn phần, đệ tử Tâm Quang xin thành kính phân ưu và xin có đôi vần kính viếng:
Vô thường cuộc thế đến rồi đi
Ai hẹn trăm năm có mấy khi
Thu tới trăng lên thôi xướng họa
Xụân về hoa nở hết đề thi
Ta bà ô nhiễm mau rời bước
Cực Lạc tịnh thanh gấp kịp thì
Bất thối Bồ Đề làm Đạo bạn
Có ngày trở lại tỏa Từ Bi
Tâm Quang
Brisbane, Trọng Đông 2018
26/06/201801:49
Khách
Nguyện cầu hương linh Cố cư sỹ Quảng Hạo siêu sinh an lạc Quốc, Nam Mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14543)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6729)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5385)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4878)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5283)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6103)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5944)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9347)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5010)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5312)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567