Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bái biệt Chơn Linh Anh Huynh Trưởng Cấp Dũng Tâm Nghĩa-Lê Hữu Đàng.

28/01/201805:55(Xem: 6491)
Bái biệt Chơn Linh Anh Huynh Trưởng Cấp Dũng Tâm Nghĩa-Lê Hữu Đàng.
tam nghia

Bái biệt Chơn Linh Anh Huynh Trưởng Cấp Dũng Tâm Nghĩa-Lê Hữu Đàng.
 
Nguyên Vinh-Nguyễn Ngọc Mùi
Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Hoa Kỳ



Kính Thưa Chơn Linh  Anh,

           Sáng Anh đi trời chưa tỉnh thức,

          Nguời say ngủ, xa lộ vắng xe qua.

          Hung tin đến, nghe lòng mình đau nhói,

          Mất Anh rồi lấy bầu bạn cùng ai.

Và,

Anh đi nhặt lấy hoa sen trắng,

Gom lại đem về thả hồ sen

Hoa tươi muôn cánh không rơi rụng

Sao rụng sao hôm nhạn lẻ bày.


Thưa Chơn Linh Anh,  Không có nổi buồn nào  bằng nổi buồn chia ly vĩnh viễn, không có nổi đau thương nào bằng nổi đau thương mất người thân, vẫn biết rằng có sinh thì có diệt, nhưng sao lòng lại buồn miên man và da diết..

Anh ơi,

  Hôm nay, ngoài trời có nắng vàng ươm và có gió lạnh từng cơn,  Anh Chi Em áo Lam của Anh hú nhau, rủ về đây, không phải để hát bài Bốn Phương Trời Ta Về Đây Chung Vui  mà là để ngậm ngùi thương tiếc tiễn Anh và lặng lẻ lòng nhủ lòng hát bài  Ra đi lia xa mái hiên chùa còn đâu bóng Lam hiền, và đôi mắt thân yêu của đàn em yêu mến, để tặng Anh.

Anh nằm đó bất động  như vậy thế là hết, mất anh rồi, Anh đã thực sự ra đi, còn đâu những tháng năm thăng trầm  san sát bên Anh xuôi ngược lo cho Tổ Chức, săn sóc cho đàn em, đóng góp sức mình cho Giáo Hội,  bảo toàn và phát huy Tổ Chức Gia đình Phật Tử Việt nam đang còn phôi thai ở xứ người .

Giờ đây  Anh  đã thực sự xã bỏ mọi triền phược của kiếp nhân sinh để trở về với dòng sông xưa nơi đó có không có đau khổ mà chì có lòng cứu độ chúng sinh.

Anh đã đến bằng con người đầy đức tính khiêm nhường, vui tính, hoà nhã, chơn thành, hiền lành, sống cho mọi người. Lúc còn nhỏ anh đã từng sống chung, học chung, chơi chung với các chú Tiểu, chú Điệu trong Chùa, gần gủi vời Thầy, với Pháp với Phật. Anh từng kể chuyện xa xưa rằng “À cũng kỳ thiệt nghe mấy chú Tiểu, chú Điệu  thật thà, ngay thơ lắm chơi đánh bài, mình khôn ranh hơn, mình lừa mấy Chú, mình ăn hết ráo. Chơi trốn tìm, mình tìm chổ đánh một giác ngủ ngon còn mấy chú thì thiệt thà  cứ rứa mãi miết đi tìm. Những bài học từ đó làm cho con người Anh trở nên chơn chất, không hơn không thua.  Lớn lên trong mội trường đó, lấy giáo dục làm thước đo kiến thức lấy Phật Pháp làm thước đo đạo đức, lấy gia đình Phật Tử làm làm nơi rèn luyện tư cách cá nhân, Anh đã từng làm trại trưởng trai huấn luyện A Dục Lộc Uyển, vác cờ trại tập họp chung, chạy tung trên đồi Nam Giao.

Trong thời Phât Giáo bị bức tử Anh cũng từng tìm cách chuyển mật thư của Giáo Hội từ chùa Từ Đàm đến các chùa trong nội thành đến các chùa địa phương lân cận. Nhờ những yếu tố trên trong chinh chiến phải tòng chinh Anh là người chi huy có tình có lý và luôn giúp đở, đùm bọc Anh Em Phật Tử trong quân đội. Thế rồi, như bao người khác Anh lập gia đình, có tính hài hước với tư cách lịch lãm của người Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử và Sĩ Quan trong quân đội mà Anh có người vợ, mà Anh nói đẹp nhất, hiền lành đoan trang nhất xóm thuộc dòng họ Tôn Thất. Anh kể có lần đến làm rể, Anh cố tình thu gọn đi một ngón tay trỏ, nghe ngươi vợ sẽ là của mình xầm xì “Ôi chao Mạ ơi Anh nớ bị cụt một ngón tay, rúa ai mà ưng cho được”.  Anh đùa như vậy đó, tính tình vui vẽ nên cả cuộc đời Anh không khổ và hạnh phúc với gia đình. Năm tháng bị đi tù cải tạo  sau khi miền nam bị mất vào tay Bắc Việt, trong lao tù nghiệt ngã Anh cũng không quên tìm đến với nhau trong tình Lam thương yêu chia sẻ nhau từng củ khoai, miếng sắn, săn sóc cho nhau lúc trái nắng trở trời.

Khi cải tạo về quê âm thầm sinh hoạt, nhằm phục hoạt lại tổ chức nhờ vậy mà tổ chức các đơn vị được hình thành trong kín đáo chờ đủ duyên công khai hành hoạt và cứ như thế cho đến khi Anh ra hải ngoại.

  Cuộc đời của Anh gắn liền với màu áo Lam, đó là cái duyên lành mà đâu phải ai cũng có được, bản chất chơn chất, hiền lành mang đến nụ cười hiền hoà cho các em mỗi khi Anh đến thăm đơn vị, mỗi lần sinh hoạt chung, mỗi lần trại, mỗi lần đại hội, hay mỗi lần đi họp xa, trên xe có Anh thi dường như ai ai cũng tỉnh ngủ nhờ những câu chuyện vui, tiếu, cười ra nước mắt không ngừng của Anh vân vân... Anh có cả một kho tàng chuyện kể về đạo đức làm người, những mẫu chuyện từ bi, chuyện sách tấn tu học.  Dòng sông đạo đức trong tâm thức của Anh tuôn chảy không ngừng, thể hiện nơi khuôn mặt của Anh như một vị Phật Di Lạc, nụ cười luôn có sẵn trên môi.

Khi trên giường bệnh mỗi khi Anh Em đến thăm câu đầu tiên Anh hỏi là “Anh Chị Em sinh hoạt ra làm sao rồi, nhớ đoàn kết thương yêu lẫn nhau nghe”  đoàn kết thương yêu là chất xúc tác của mọi Lam viên nhờ đó mà tồn tại.  Trong cơn hấp hối, trong giờ phút sắp lâm chung Anh vẫn vấn vương hơi thở của tình Lam.   


      

Thân xác Anh nằm đó bất động sau một kiếp làm người năng động. Chơn Linh Anh đó đang tĩnh lặng hướng về cảnh Lạc Quốc theo thiện nghiệp của Anh.

Thưa Anh  Vẫn biết rằng cuộc đời có đó rồi không, nhưng khi chia tay Anh chúng em  vẫn ngậm ngùi, đau lòng xé ruột, thương tiếc một người Anh. Thôi lần cuối cũng là lần cuối cùng, vĩnh viễn mất Anh, vĩnh biệt Anh. Ngưỡng mong ánh hào quang của chư Phật phóng quang tiếp độ Chơn Linh Anh về miền  Cực Lạc. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Vĩnh biệt Anh.

                                  Anh đi đi mãi không về nữa

                                  Bỏ lại hồ sen lắm phấn hoa

                                  Phấn bay bay khắp bên thềm vắng

                                 Tĩnh mịch trời buồn cánh sen rơi.

Bái biệt Anh, bái biệt Anh, vĩnh viễn bái biệt Anh.

Nguyên Vinh-Nguyễn Ngọc Mùi
Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 8486)
Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Tác giả mang ơn sâu đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát vì các công trình nghiên cứu và dịch thuật của hai thầy mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo; và đối với bổn sư tác giả là Thiền Sư Thích Tịch Chiếu. Tác phẩm này được đặc biệt dâng tặng tới các thế hệ trẻ, và phổ quát dâng tặng cho tất cả chúng sinh.
16/12/2010(Xem: 5635)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 9348)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 6007)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 26692)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 11043)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 8050)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 7998)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]