Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn tiễn biệt Cư Sĩ Trần Quang Thuận

08/01/201810:37(Xem: 9940)
Điếu văn tiễn biệt Cư Sĩ Trần Quang Thuận
Tran Quang Thuan
ĐẠO TÌNH ĐIẾU VĂN
TIỄN BIỆT CƯ SĨ TRẦN QUANG THUẬN

Ngày cuối năm 2017,
Tấm thiệp mừng Tân Niên chưa đọc.
Đã đọc báo tin buồn:
Cư sĩ Trần Quang Thuận vừa ra đi,
Ở miền Nam Cali, hưởng thọ 88 tuổi.
Nhẹ nhàng rủ bóng tà huy.
 
Hỡi ơi!
 
Như mây trời tụ tán, dòng đời hợp tan,
Như bốn mùa xuân hạ thu đông:
Người đi giữa chốn bụi hồng,
Từ không trở lại bờ không quay về.
 
Ngậm ngùi thay…

Dẫu biết rằng:
Sinh là ký, tử là quy,
Mất còn như huyễn mộng.
Nhưng vẫn đau lòng,
Bờ tương biệt chia ly.

Báo thân xã bỏ,
Tương hợp khó tìm.
Sinh diệt trùng trùng xoay chuyển mãi,
Nẻo luân hồi còn gặp lại hay không?!

Nhớ linh xưa.

Người con trai xứ Huế,
Nét gia phong nề nếp, khiêm cung.
Thế hệ 1930 lửa dậy men rừng,
Nam Hải, Trường Sơn trùng trùng gió lộng.
Cũng có lúc đất bằng nổi sóng,
Cũng có thời lịch sử nghiêng chao.
Thân phận làm người trong thế hệ chiến tranh,
Gió chướng vật vờ sai một ly đi một dặm,
Phân hoá, hận thù, yêu thương… chen sống.
Chân lý và sai lầm cùng chia nửa đường ranh!
Thiếu chánh niệm non cao thành vực thẳm,
Thiếu từ bi trí tuệ cũng không thành.
 
Ánh Đạo Vàng hoa sen trong biển lửa,
Trung đạo mà đi giữa cuộc thế ba đào.

Nhưng vũ khí thiện xảo,
Cho người Phật tử đem Đạo vào Đời,
Là diệu lý Chân Tâm:
Tâm ẩn, tâm tàng, tâm an, tâm động…
Đóa sen ngời an lạc biết tùy duyên.

Tân hương linh:
 
Tuấn tú, oai nghi, mẫu mực sinh thời:
Trần Quang Thuận.
Pháp danh Tâm Đức,
Pháp tự Trí Không;
Xuất thân đệ tử ôn Đôn Hậu,
Huynh trưởng đầu đàn,
Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
 
Với đạo:
Công hạnh một đời không thối chuyển,
Nương nhờ Tam Bảo chứng thân tâm.
 
Với đời:
Tiến sĩ, chuyên gia, hàm bộ trưởng,
Giáo sư, nghị sĩ, tác văn nhân.
 
Với chính mình:
Nhìn lên tôn đức tâm thanh tịnh,
Ngó tới đàn em ý rạng ngời.
 
Và danh vị:
Danh xưa phù ảo như hoa đốm,
Nương cánh sen vàng tịnh lạc bay.
               
Cư sĩ Tâm Đức
 
Như cội bồ đề đàn chị, đàn anh,
Vẫy tay chào trên chuyến tàu hoàng hôn thế hệ.
Là niềm hãnh diện tuổi già,
Là bóng dáng tin yêu tuổi trẻ.
Đưa tiễn người ra đi,
Nỗi thương tiếc lưu tình người ở lại,
Tâm kinh đời công hạnh vẫn còn ghi.
  
Nam mô,
Nhất niệm Nam mô
 
Trí tuệ, từ bi, uyên áo diệu kỳ…
Thay áo đưa người thể tánh hồi quy,
Một niệm tận hư không ba ngàn thế giới,
Phật, thánh chúng dẫn đường đi tới,
Sanh tử đôi bờ liễu ngạn người đi,
Và nguyện cầu bờ hoá độ bên kia.
 
Phút tiễn biệt chắp tay đồng niệm:
 
Buông xả tận cùng,
Nghiệp duyên gánh nặng.
Nương thuyền từ rỗng lặng từ bi.
Nẻo đạo người đi,
Vãng sanh Cực Lạc,
Đường thênh thang không còn chi vướng vất,
Sen nở, mây chào tiếp độ hương linh.
Cung tiễn nhau đi một dạ chí thành:
Nam mô tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật
 
                                                Nguyên Thọ TKĐ
 
 
Ý kiến bạn đọc
08/01/201807:39
Khách
Điếu văn là một thể loại khó viết.
Viết tới được trình độ này thật là vừa tài hoa, vừa trang trọng, vừa uyên bác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10390)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18898)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7754)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6571)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6043)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6608)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7201)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 7009)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11341)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6360)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]