Ghi chú:
1: Xuất gia: Ngày mồng 8 tháng 2 năm 1933, ngày lễ Đức Thích Ca vượt thành xuất gia tầm đạo, cũng ngày này Hòa Thượng lìa bỏ tục duyên cắt tóc quy y vào chùa học đạo, Tổ Thiền Tôn cho Ngài Pháp danh là Tắc An.
2: Thiền Tôn: chùa Thiền Tôn 2, số 264 đường 30, phường Cát Lái, quận 2, TP.HCM.
Nơi này chính là ngôi phạm vũ, mà Hoà Thượng đã xuất gia từ nhỏ.
3: Sa di: Năm 1938 Tổ Liễu Thiền Khai Đại Giới Đàn tại Chùa Tôn Thạnh, Cần Giuộc, Hòa Thượng Bổn sư cho Ngài Đăng Đàn Thọ Giới Sa Di và theo học luật Sa Di với Tổ Tôn Thạnh. Hòa Thượng là người nhỏ tuổi nhất trong chư huynh đệ, với đức tính hiền hòa lễ phép chăm học siêng làm, cộng thêm tướng tế hạnh đoan nghiêm, nên được Tổ sư thương mến, bạn học nể vì.
4: Nối Tông Thai Quán: Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông, thế tánh Lâm danh Văn Phận.
5: Phú Lâm: Vào năm 1946 đến năm 1950 Ngài được Hòa Thượng Bổn sư cho theo học tại Phật Học Đường Liên Hải tại Phú Lâm do Hòa Thượng Trí Tịnh làm hiệu trưởng.
6: Giới Đàn: Năm 1946, Ngài 20 tuổi Hòa Thượng Bổn Sư xét thấy đại duyên cụ túc, chí hữu Phật gia nên cho phép ngài Đăng Đàn Thọ Tỳ Kheo Bồ Tát Đại Giới tại Đại Giới Đàn chùa Tôn Thạnh, do Tổ Liễu Thiền làm Đàn Đầu Thí Giới.
7: Dựng Tạo: Năm 1972 một lần nữa trùng tu chùa cũ, thêm nét huy hoàn của phạm vũ thiền gia.
Năm 2002 Đại Xiển Tông Phong, đại trùng tu Thiền Tông tự, chú tạo Kim thân Phật Đà bằng đồng từ Phúc Kiến Trung Hoa, đúc chuông, tạo Di Đà Như Lai bằng Hán Bạch Ngọc, tây dựng Tăng đường, đông khởi Tháp lưu ly. Phước địa dũng liên hoa, Tu di an cung điện, chùa Thiền Tôn bây giờ khác chi thánh địa, cụ tướng Kỳ Đà thụ với Cấp cô viên. Nếu không phải thạc đức thì duyên nào xây nên Phạm Vũ, như chẳng là Long Tượng làm sao trụ chốn Kim Tiên .
8: Ấn Quang: Năm 1953 Ngài theo học tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang do Hòa Thượng Thiện Hòa làm hiệu trưởng, trong 3 năm dùi mài Kinh Luật Luận ở học đường, đến năm 1955 thì mãn khóa.
9: Đàn đầu: Năm 1977 Hòa Thượng được cung thỉnh làm Giới sư tại Đại Giới Đàn Khánh Anh-Long Xuyên.
Năm 1999 Hòa Thượng được cung thỉnh làm Tuyên Luật Sư tại Đại Giới Đàn Liễu Thiền-Cần Giuộc.
Năm 2008 Hòa Thượng được cung thỉnh làm Giới sư tại Đại Giới Đàn Huệ Lưu chùa Phổ Quang T.P Hồ Chí Minh và là Hòa Thượng chứng minh cho nhiều trường hạ ở T.P Hồ Chí Minh.
Năm 2010 Hòa Thượng được cung thỉnh làm Giới sư tại Đại Giới Đàn Viên ngộ chùa Kim Cang - Long An.
Năm 2010 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Cam Lộ - Gia Lai.
Năm 2011 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Hành Trụ chùa Huê Nghiêm - T.P Hồ Chí Minh.
Năm 2012 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Giới Đàn Cam Lộ Phương Đẳng chùa Huệ Nghiêm - T.P Hồ Chí Minh.
Năm 2013 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Quảng Đức chùa Huệ Nghiêm - T.P Hồ Chí Minh.
Năm 2015 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Hiển Kỳ chùa Phước Bảo - Long An.
Năm 2015 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Cam Lộ Giác Ngộ chùa Minh Thành - Gia Lai.
Năm 2015 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Trí Đức chùa Huệ Nghiêm - T.P Hồ Chí Minh.
Năm 2016 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Đại Giới Đàn Bồ-tát Quảng Đức chùa Long Sơn - Nha Trang - Khánh Hoà.
Năm 2017 Hoà Thượng được cung thỉnh làm Hoà thượng Đường Đầu tại Giới Đàn Phương Trượng chùa Huệ Nghiêm - T.P Hồ Chí Minh.
10: Thiên Đài Tông Bái: Năm 2012 Ht Tắc An, Ht Trí Quảng, Tt Lệ Trang, cùng chư tôn Thiền đức tham quan, chiêm Bái núi Thiên Đài.
Chùa Quốc Thanh ở Núi Thiên Đài lúc đầu lấy tên núi để đặt hiệu chùa, cho nên gọi là chùa Thiên Đài, sau đó lấy ý trong câu "Chùa làm xong, thì đất nước thanh bình", nên đổi hiệu chùa lại là Quốc Thanh. Đây là Tổ đình của tông phái Thiên Đài, một trong mười tông phái của Phật Giáo Bắc Truyền do Ngài Trí Giả Đại Sư sáng lập.
Chùa Quốc Thanh được khai sơn vào niên hiệu Khai Hoàng thứ 18 (598) đời Vua Văn Đế nhà Tùy, chùa được dựng theo họa đồ của ngài Trí Giả Đại Sư để lại. Trí Giả Đại Sư sau khi thành lập Thiên Đài Tông, Ngài muốn xây dựng một Đạo tràng để làm nơi hoằng truyền Giáo Quán Tông cũng như Tổ đình cho tông phái, nhưng lúc bấy giờ do vì các duyên chưa thành tựu nên công trình xây dựng chùa chưa tiến hành được, vì vậy cho đến cuối đời Ngài chùa vẫn chưa xây dựng, trước khi Ngài thị tịch, Ngài có viết thơ gởi gắm việc xây chùa cho Tấn Vương (sau này lên ngôi là Tùy Dưỡng Đế). Trong thư có đoạn ngài viết: "Bất kiến tự thành, minh mục vi hận" (không thấy được chùa xây dựng xong là nổi niềm ân hận khi nhắm mắt vậy). Tấn vương khi xem thư xong, liền sai Tư Mã Vương Hoằng Giám xây chùa Quốc Thanh để hoàn thành tâm nguyện của Tổ Thiên Đài.
Tổ Thiên Đài Ngài họ Trần húy là Trí Khải, người đất Vĩnh Xuyên, tương truyền rằng khi Ngài sanh ra có thần quang chiếu sáng cả nhà. Ngài xuất gia năm 18 tuổi, tham học với Huệ Tư thiền sư. Ngày Ngài đến lễ Thiền Sư Huệ Tư để cầu học Phật Pháp, Thiền sư vừa thấy Ngài đến liền nói: “Năm xưa ta với ngươi ở pháp hội Linh Sơn là bạn đồng tu, túc duyên hạnh nguyện chưa tròn, nên nay lại gặp nhau”. Từ đó Đại sư nương theo Ngài Huệ Tư Thiền sư, chuyên tâm tu học thiền quán, không bao lâu chứng được “Pháp Hoa Tam Muội, Biện Tài Vô Ngại”.
Ngài uyên thâm Phật học, tu hành đức độ nổi tiếng cả nước, ngay cả Vua Tuyên Đế nhà Trần vì mến đức độ của Ngài, nên cất chùa thỉnh Ngài về trụ trì. Vua Dưỡng đế nhà Tùy cũng thọ giới cùng Ngài, lại tứ hiệu là Trí Giả. Từ đó Ngài được người đời xưng tụng là Trí Giả Đại Sư. Sau Đại sư trở về núi Thiên Đài, lập Tông Thiên Đài, giáo hóa Pháp Hoa Tông, đạt đến đảnh thạnh. Mùa đông niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 đời nhà Tùy, Ngài ngồi quay mặt về hướng Tây, niệm Phật an nhiên thị tịch, trụ thế 67 tuổi.
Trí Giả Đại Sư là người sáng lập Thiên Đài Tông, Thiên Đài Tông dựa trên nền tảng triết lý của Kinh Pháp Hoa nên còn được gọi là Pháp Hoa Tông. Thiên Đài là tên ngọn núi nơi Đại sư tu hành và giảng đạo. Theo sách Nam Triều Lương Đào Hoằng Cảnh Chân Hạo có chép: “Núi Thiên Đài cao 1 vạn 8000 trượng, chu vi rộng 800 lý, núi cao chia ra thành 8 tầng, bốn mặt đều như nhau, nếu theo vị trí của sao Ngưu mà phân định, thì vị trí của núi ứng thuộc Đài Túc, nơi làm đài chiếu ánh sáng của mặt trời, cho nên được gọi là Thiên Đài...”.
Chùa Quốc Thanh ở Núi Thiên Đài vị trí nằm ở Trấn Thành Quan, Huyện Thiên Đài, tỉnh Triết Giang Trung Quốc. Chùa được khai sơn vào đời nhà Tùy, hai lần bị hủy hoại trong pháp nạn vào đời Vũ Tông nhà Đường và niên hiệu Tuyên Hòa thứ hai đời Bắc Tống, đến niên hiệu Kiến Đàm thứ hai đời nhà Tống thì chùa được trùng tu, trở thành một trong 10 ngôi chùa nổi tiếng trong Thiền Lâm của Phật Giáo “Ngũ sơn thập sát”. Đến đời Thanh niên hiệu Ung Chánh thứ 12 triều đình hạ chiếu trùng tu, đến cuối đời Thanh và trong thời Dân Quốc có vài lần trùng tu và xây dựng thêm các hạng mục kiến trúc phụ.
Chùa Quốc Thanh dựng theo hướng tọa Bắc triều Nam, trục chính gồm có các kiến trúc điện đường chính như: Di Lặc Điện, Vũ Hoa Điện, Đại Hùng Bảo Điện, Dược Sư Điện, Quán Âm Điện… ngoài ra tả hữu hai bên còn có các kiến trúc khác như Phóng sanh trì, lầu chuông trống, Tụ Hiền Đường, Phương Trượng Lâu, Tam Thánh Điện, Diệu Pháp Đường, Già Lam Điện, La Hán Đường.v.v...tổng thể kiến trúc hơn 800 gian,
Pháp bảo cổ vật trong chùa còn được bảo tồn rất nhiều, như tượng Phật Thích Tôn trong chánh điện được đúc bằng đồng thuộc thời nhà Minh, 18 tôn tượng La Hán được chạm khắc bằng gỗ xưa, đây là tác phẩm quý của thời nhà Nguyên còn sót lại, nay là bảo vật trấn sơn chi bảo của chùa Quốc Thanh.
Cây mai trắng ngàn năm "Tùy Mai", tương truyền là do Tổ thứ năm của Thiên Đài Tông là Ngài Quyền Đảnh Tổ sư trồng vào thời nhà Tùy, đây là cây mai trắng cổ nhất của đất nước Trung Quốc, trãi qua hơn 1000 năm nhưng vẫn xanh tốt, mỗi năm cứ đến mùa xuân lại nở hoa trắng cả một góc chùa, thật là một cảnh tượng đặc biệt của chùa Quốc Thanh.
Chùa Quốc Thanh đặc biệt còn một ngôi điện xưng là " Vũ Hoa Điện" đây là một trong những tên của điện Phật rất đặc biệt và rất hiếm thấy trong hệ thống danh xưng điện đường trong tự viện của Phật Giáo Trung Quốc. Tương truyền rằng khi Ngài Trí Giả đại sư từng tại ở Vũ Hoa Điện này giảng Kinh Pháp Hoa, Ngài nhất tâm tín thành giảng thuật Kinh Pháp Hoa, cảm động đến thiên đình, tự nhiên trên trời rưới hoa thành "Pháp Vũ Thiên Hoa" cúng dường vì vậy điện này được đặt tên là Điện Hoa Vũ.
Sáu chữ đại tự "Đại Trung Quốc Thanh Chi Tự" ở tấm bia phái sau vách chùa là bút tích của nhà thư pháp gia nổi tiếng đời Đường, ba chữ đại tự trên cổng sơn môn “Quốc Thanh Tự” là ngự bút của Vua Ung Chánh đời Thanh. Trước cổng, trên tấm bình phong trước cổng sơn môn đề bốn chữ "Giáo Quán Tổng Trì" hàm ý tổng quát tông chỉ của Tông Thiên Đài, từ cầu Phong Can đến bức tường Chiếu Bích có đề bốn chữ "Tùy Đại Cổ Sát".
Bên cầu Phong Can còn có tấm bia đá đề bảy chử “Nhất Hạnh Đáo Thử Thủy Tây Lưu”, đây là bia lưu lại dấu tích của Nhất Hạnh Thiền Sư, Tổ sư của Mật Tông đời nhà Đường khi đến núi Thiên Đài để cầu học thuật số toán pháp, khi Ngài đến suối này thì bỗng dưng nước chảy ngược về hướng tây.
Trước chùa Quốc Thanh còn một ngôi cổ Tháp đời Tùy cách đây hơn 1000 năm, và ngôi đình Tam Hiền Đình kỷ niệm hai vị hóa thân Bồ Tát là Hàn Sơn và Thập Đắc, và ngài Phong Can, tương truyền rằng Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền đã từng hóa thân thành hai vị Tăng là Hàn Sơn và Thập đắc ở trong chùa này.
Trong chùa còn có bia kỷ niệm Ngài Tối Trừng, Tổ của Thiên Đài Tông Phật Giáo Nhật Bản, Ngài đã từng tham học tại chùa Quốc Thanh và sau khi về Nhật Bản truyền tông Thiên Đài ở núi Tỷ Duệ, Kinh Đô sáng lập Thiên Đài Tông ở Nhật Bản. Sau đó Ngài Nhật Liên Thánh Nhân cũng dựa theo tư tưởng triết lý Kinh Pháp Hoa của Tông Thiên Đài lập ra Nhật Liên Tông, cho nên Nhật Liên Tông cũng coi chùa Quốc Thanh là Tổ đình của tông phái mình, vì vậy ở sau đại điện chùa Quốc Thanh cũng có đề bia kỷ niệm.
Thế kỷ thứ 11 Thiên Đài Tông được truyền vào Hàn Quốc và các học Tăng Hàn Quốc đều có đến cầu học tại chùa Quốc Thanh, vì vậy ở đây cũng có nhà bia tưởng niệm các vị Tăng Hàn Quốc cầu Pháp tại Thiên Đài. Đến thể kỷ 20 Thiên Đài tông được truyền qua Việt Nam, vì vậy chùa Quốc Thanh cũng trở thành Tổ đình của Tông Thiên Đài của các chi phái Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Sự truyền thừa chính thức của tông phái Thiên Đài sang Việt Nam là vào đầu thế kỷ 20, bắt nguồn từ các vị tu theo đạo Minh Sư ở Sài Gòn. Phái đoàn đạo Minh Sư chia làm hai đợt đón tàu vượt biển sang Trung Quốc thọ giới với Tổ Hiển Kỳ ở chùa Thanh Sơn. Tổ Hiển Kỳ là Người Việt Nam quê ở Cần Giuộc Chợ Lớn, trước tu theo đạo tiên sau đó theo ngài Đế Nhàn Đại Sư ở Hoan Tôn, quy y Tam Bảo xuất gia làm đệ tử, Ngài Đế Nhàn là đời Tổ thứ 47 theo bài kệ truyền thừa từ Sơ Tổ Trí Giả Đại Sư. Ngài Hiển Kỳ được ban cho pháp danh là Nhiên Công, pháp hiệu là Hiển Kỳ, chính thức được truyền thừa trở thành Tổ thứ 20 của Tông Thiên Đài.
Sau đó, các vị nầy trở về Việt Nam hoằng truyền giáo nghĩa Thiên Đài Giáo Quán, thành lập tông phái với danh xưng là Phật Giáo Việt Nam Thiên Thai Giáo Quán Tông. Tông Phái Thiên Thai được hình thành và phát triển ở các tỉnh miền Tây Việt Nam vào giữa thập niên 30, và tồn tại mạnh mẽ cho đến ngày nay. Ngài Liễu Thiền là vị tiêu biểu và được tôn vinh làm sơ tổ của Tông Thiên Thai ở Việt Nam. Thiên Đài Tông ở Việt Nam được xưng là Thiên Thai có thể các Tổ dùng âm đọc của chữ “Thai” (thai nhi) vì trong cách đọc của chữ “Đài”, còn một cách phát âm nữa đó là đồng âm đọc với chữ “Thai”.
Chùa Quốc Thanh ở Triết Giang, chùa Thê Hà ở Nam Kinh, chùa Linh Nham ở Tế Nam, chùa Ngọc Tuyền ở Đương Dương, đây là bốn ngôi chùa được xưng tụng là "Giang Nam Tứ Tuyệt". Chùa Quốc Thanh là danh lam nổi tiếng của Trung Quốc là Tổ đình của các chi phái Thiên Đài Tông khắp nơi trên thế giới, là một đại tòng lâm của Phật Giáo Trung Quốc. Xuyên suốt trên 1000 năm hoằng truyền giáo nghĩa Thiên Đài chưa từng ngơi nghỉ và là một chốn đi về lễ Phật triều Tổ của tất cả Phật tử trên toàn thế giới.( trích trang nhà chuaminhthành.com)