Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm Niệm Tri Ân HT Như Huệ

20/03/201720:17(Xem: 5679)
Cảm Niệm Tri Ân HT Như Huệ

 

HT Thich Nhu Hue-1
CẢM NIỆM TRI ÂN


Kính lạy Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng thượng Như hạ Huệ,

Khi con viết những dòng này thì Ngài đã quảy dép quy Tây, đã nhập vào bản thể Chơn Thường Vô Sanh Bất diệt, từ cõi hồng trần sanh tử lụy phiền này, con xin Ngài chứng giám lòng con.

Viết về bậc Đại Sư đã hy hiến cả cuộc đời gần một thế kỷ, với hành trạng dường như đã trở thành một huyền thoại xuyên dòng mạch lịch sử Phật Giáo Việt Nam, từ trong quốc nội đến hải ngoại, với vốn liếng vài câu chữ như con, cố gắng bám víu để diễn tả đôi dòng cảm xúc thì thật khó vô cùng.

Tháng 3 năm 2008, con được cơ duyên đến Adelaide, con đến vấn an sức khỏe Hòa Thượng tại Tổ Đình Pháp Hoa. Với tâm trạng một người hậu học đến đảnh lễ Hòa Thượng, con thật hạnh phúc khi được Hòa Thượng ân cần dành nhiều thời gian để dạy bảo, và Hòa Thượng đã cho phép con đến thăm  Hòa Thượng nhiều lần sau đó.

Như một sự tiên liệu, Hòa Thượng đã chỉ dạy cho con về những kinh nghiệm thành lập Chùa, Hội và điều hành một ngôi chùa tại Úc. Và lần nào trước khi đảnh lễ Ngài ra về, Ngài đều dạy: “Chỉ có Kham Nhẫn mới có thể hành đạo được ở xứ này, tôi suốt đời theo hai chữ đó”. Lời dạy của Ngài làm cho con nhớ đến lời thơ của Thiền Sư Ngộ Ấn rằng:

" Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

Liên phát lô trung thấp vị can".

Nghĩa là:

"Giống như ngọc đốt trên núi cao màu vẫn tươi nhuần mãi

Hay như hoa sen trong lò lửa mà sắc vẫn ướt, chưa hề khô".

Con xin cung kính ghi lại lời thơ trên để phần nào nói lên công hạnh siêu quần bạt tục của Ngài. Quả thật, cuộc đời của Ngài như viên ngọc toàn bích, luôn sáng mãi với bản chất tuyệt vời. Với bao thăng trầm của vận nước, đạo pháp quê hương, chịu đựng muôn phần khổ nhọc, lấy đại cuộc làm trọng, lấy bao nỗi đau khổ của muôn người là khổ của chính mình, can trường dõng mãnh của Bậc Đại Hùng, không chùn bước trước bao gian nan nguy khốn. Con đến nước Úc này sau Ngài gần 30 năm, nhưng những khó khăn hiện tại đã làm mệt nhoài tâm thể, huống gì Ngài là một trong rất ít chư Tôn Đức Tăng Việt Nam đến Úc rất sớm, bắt đầu khai nguồn Đạo Pháp, thì ngẫm nghĩ cả muôn trùng gian khổ trong thời điểm ấy.

Chúng con, hàng hậu học không đủ duyên phước để học hỏi với Ngài nhiều nhưng thời gian hơn 10 năm ở Úc, đặc biệt trong khoảng thời gian ở Adelaide cũng đủ để cảm nhận đức độ tài năng lãnh đạo của Ngài, một sự thị hiện hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Âm, cứu khổ dìu dắt bao người trong cơn nguy khốn.

Trước khi Hòa Thượng viên tịch mấy tuần, con về thăm Hòa Thượng, nhìn tướng hiện thị tịch của Ngài mà con buồn tận tâm can, mấy đêm đó tiết trời của Adelaide dông gió nhiều, cảnh vật như đang đau buồn, tiếc thương tiễn biệt Bậc Đại sư sắp rời bỏ huyễn thân.

Sau khi Tang lễ của Hòa Thượng đã hoàn mãn, con trở về chùa với tâm trạng thật đơn côi; rồi trong Trường Hạ Quảng Đức, thiếu vắng tôn dung Hòa Thượng cảnh vật cũng u hoài.

Kính lạy Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng,

Công đức và hành trạng của Ngài mãi luôn gắn liền với quê hương và đạo pháp, truyền lưu trong mạng mạch của Phật pháp, đặc biệt trên xứ Úc thân thương này.

Con thành tâm đảnh lễ bái tạ thâm ân Ngài, xin Ngài chứng tri. Con nguyện ghi nhớ lời Ngài dạy: “Kham Nhẫn”, để làm tròn trách nhiệm vai trò Trưởng Tử Như Lai.

Nam Mô A Di Đà Phật

Cuối Đông năm Bính Thân

Đệ tử Thích Hạnh Phẩm

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4887)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7186)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4224)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4847)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5616)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6207)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3835)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5269)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5338)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12991)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567