Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Cảm Niệm của đệ tử Ưu Bà Tắc

02/06/201604:57(Xem: 4234)
Lời Cảm Niệm của đệ tử Ưu Bà Tắc

HT Thich Chon Phat-2
LỜI CẢM NIỆM ÂN SƯ

CỦA ĐẠI DIỆN ĐỆ TỬ CƯ SĨ ƯU BÀ TẮC

***** 

 

Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật liên tọa chứng minh

Nam mô từ phụ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật liên tọa chứng minh

Chí tâm đảnh lễ giác linh cố Hòa Thượng Bổn sư thượng Chơn hạ Phát giác linh chứng minh.

Chúng con hàng Phật tử. đệ tử của Ngài tại Sài gòn, Chợ lớn năm xưa, nay là TP Hồ Chí Minh hay tin cố Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, chúng con vân tập về trước linh đài của Ngài thành tâm đảnh lễ giác linh cố Hòa Thượng thượng Chơn hạ Phát tam bái để dâng lên Ngài lời cảm niệm vị Bổn sư, ân sư giáo dưỡng khả kính của chúng con.

Kính bạch giác linh cố Hòa thượng Bổn sư;

Ngài hiện thân trong đời nầy là để giáo hóa và độ cho tất cả chúng con. Sau khi thọ cụ túc giới, Ngài đã nghỉ đến hoằng dương chánh pháp và chấn hưng Phật giáo tại Quảng Nam quê nhà. Lúc bấy giờ vào ngày 2-2-1955, Ngài đã một mình rời quê hương Hội An Quảng Nam, đi bằng ghe bầu từ Cửa Đại Hội An vào Sài gòn để theo học Cao Đẳng Phật học tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sài gòn Chợ lớn. Khi tốt nghiệp Ngài đã ở lại nơi đây để hoằng dương chánh pháp. Lúc bấy giờ Ngài được bổ nhiệm làm Giám Viện Phật Học Viện Giác Sanh và giảng sư Phật học viện Hải Quang Phú Nhuận, Phật Học Viện Vạn Thọ xã Bình Hòa.

Nhờ nhân duyên nầy, chúng con là những người con xứ Quảng xa quê, vào Sài gòn tìm kế sinh nhai lập nghiêp, tuổi đời chừng 18 đôi mươi, có lẽ đã có nhân duyên Phật Pháp nhiều đời với Ngài nên trong lúc xa quê lạc lõng giữa chợ đời, khó khăn về tinh thần chưa biết nương tựa vào đâu. Duyên lành hội đủ, vào năm 1959, chúng con đã gặp được Thầy Thích Chơn Phát trú tại Tổ đình Hưng Long, một ngôi chùa của dòng Lâm Tế Chúc Thánh Quảng Nam tại đường Ngô Gia tự Chợ Lớn. Khi gặp được Ngài chúng con đảnh lễ xin Ngài truyền Tam Quy Ngũ giới, nhận chúng con làm đệ tử. Được Ngài hoan hỷ hứa khả lòng chúng con tràn đầy niềm hỷ lạc.

Từ đây chúng con đã có vị ân sư khả kính, người cùng quê hương Quảng Nam để dìu dắt cho chúng con trên con đường học đạo, tìm cầu giải thoát. Ngài đem giáo lý Phật Đà dạy dỗ cho chúng con trong suốt thời gian 3 năm từ năm 1959 đến 1962 tại Phật học Viện Giác Sanh. Nhờ sự chỉ dạy của Ngài chúng con đã thấu hiểu được giáo lý vi diệu thậm thâm để áp dụng vào cuộc sống, làm kim chỉ nam trên bước đường giải thoát. Qua bao nhiêu thăng trầm và thử thách trong suốt cuộc đời gần 60 năm, chúng con đã trưởng thành và phát triển đạo tâm kiên cố dõng mảnh cho đến ngày hôm nay.

Năm 1962, Ngài  trỏ về quê hương với Tổ đình Long Tuyền để kế thừa Tổ nghiệp làm trụ trì Tổ đình, đóng góp rất nhiều cho Phật sự Tỉnh nhà và phong trào tranh đấu của Phật giáo tại quê hương.

Trong suốt thời gian xa chúng con, nhưng lúc nào Ngài cũng sách tấn cho chúng con tu học. Những lúc có Phật sự vào Sài gòn Ngài đều đến với chúng con, những lúc chúng con về thăm quê hương đến Tổ đình lễ Tổ vấn an Bổn sư được Ngài tiếp đón ân cần, Ngài kể lại những Phật sự đã làm được hay những câu chuyện về Thầy Tổ tại quê nhà để sách tấn chúng con, Bao nhiêu kỷ niệm về Ngài đã thấm sâu trong lòng của những đệ tử xa quê, chúng con luôn tạc dạ ghi ơn. Luôn luôn nhớ đến hạnh nguyện độ tha của Ngài. Dù ở xa nhưng chúng con rất hạnh phúc vì thường được Ngài quan tâm theo dõi, sách tân từng bước cho chúng con trên con đường tu tập. nhắc nhở cho chúng con phải tinh tấn vượt qua mọi khó khăn để giữ gin mối đạo. Đúng là :

Trên đường đạo không gì gằng tinh tấn

Không gì bằng trí tuệ của đời ta

Sống điêu linh trong kiếp sống Ta bà

Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả

Bằng trái tim yêu thương và nghị lực phi thường, Ngài đã là tấm gương cho chúng con soi rọi,chúng con nguyện với lòng phải luôn noi theo hạnh nguyện của Ngài.

Hôm nay, trong nắng hạ và mùa An cư kiết hạ của chúng tăng, hạnh nguyện độ sanh của Ngài đã tròn đầy viên mãn, Ngài không từ mà biệt, Ngài đã đi rồi. Ngài an nhiên tự tại viên tịch để lại cho chúng con một nỗi buồn thương, nhớ mãi người cha lành không bao giờ được gặp lại.

Trước giờ phát thiêng liêng trầm hương lan tỏa, dưới sự chúng minh của chư tôn Trưởng lão Hòa Thượng, chư Hòa Thượng, Thượng Tọa Đại Đức Tăng, Ni, chúng con thành tâm nguyện cầu hồng ân chư Phật phóng ngọc hào quang tiếp độ giác linh Hòa Thương Cao Đăng Phật Quốc, hồi nhập ta bà để dẫn dắt chúng con trên con đường tìm cầu giải thoát.

Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật tác đại chứng minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 8060)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 6725)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11075)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6676)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6362)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8134)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6725)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6139)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5482)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5534)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567