Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử HT Thích Chơn Phát

01/06/201616:49(Xem: 4879)
Tiểu Sử HT Thích Chơn Phát
ht thich chon phat
TIỂU SỬ
 TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG  THÍCH CHƠN PHÁT
(1931 - 2016)
 
- Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN
- Chứng minh ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Quảng Nam
-  Trụ trì chùa Long Tuyền.
 

I/- Thân thế.

 

Hòa Thượng thế danh Nguyễn Nghi, sinh ngày 13-10 năm Tâm Mùi (1931) tại làng Kim Bồng, Xã Cẩm Kim, TP Hội An. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Gia, Pháp danh Ấn Hoa, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Xách pháp danh Như Quý. Ngài sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, nhiều đời có người xuất gia học Phật.

Năm Đinh Sửu (1937), thân phụ ngài qua đời, kế tiếp năm sau thân mẫu cũng tạ thế để lại nhiều nỗi thương cảm trong lòng Ngài khi tuổi còn quá nhỏ.


II/- Đạo nghiệp.

1. Xuất gia tu học:

- Năm Mậu Dần (1938), Ngài đến xuất gia tại chùa Long Tuyền với Hòa Thượng Phổ Thoại (cũng là chú ruột của Ngài) và được bổn sư ban cho Pháp danh Chơn Phát. Từ đây Ngài hầu Thầy học đạo. Tuy là cháu ruột nhưng Hòa Thượng bổn sư rất khắt khe so với chúng điệu cùng trang lứa.

      Năm 1946, người Pháp trở lại đánh chiếm Việt Nam, Ngài theo dòng người tản cư lên Thanh Châu một thời gian dài. Năm 1949, sau khi hồi cư Ngài nhập chúng tu học tại chùa Phước Lâm do Hòa Thương Đương Như làm Trụ trì và ngài được đề cử làm Tri sự chăm lo việc chúng.

Năm Canh Dần (1950 )Ngài về lại chùa Long Tuyền hầu Thầy, cũng trong năm nầy, Hòa Thượng Bổn sư truyền giới Sa di cho Ngài và ban Pháp tự Đạo Dũng.

Năm Tân Mão (1951) Ngài được Bổn sư cho nhập chúng tu học tại chùa Chúc Thánh dưới sự chỉ dạy của Hòa Thượng Tăng cang Thích Thiện Quả.

Đầu năm Giáp ngọ (1954), thấy Hòa Thượng Bổn sư sức khỏe yếu dần, Ngài về lại Long Tuyền hầu Thầy. Vào ngày 15-3 năm Bính Ngọ (1954) Ngài được Bổn sư phú pháp hiệu là Long Tôn.

Ngày mồng 9 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954), Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, Ngài cùng môn đồ lo việc tang lễ và xây dựng bảo tháp để báo đáp thâm âm giáo dưỡng của Thầy Tổ. Sau khi tang lễ viên mãn, Hòa Thượng Tăng Cang Thiện Quả đã cử Ngài làm tự trưởng chùa Long Tuyền. Tuy nhiên vì muốn thăng tiến trong việc tu học. Ngài đã thỉnh Hòa Thượng Đương Như về Trụ trì chùa Long Tuyền, còn Ngài thì vào miền Nam tu học.

Tháng 4 năm Ất Mùi (1955) dưới sự trợ duyên của Hòa Thượng Thích Trí Giác, Ngài xuống tàu vào Nam tu học, Ngài trú tại chùa Hưng Long Sài gòn và được Hòa Thượng Thích Trí Hữu đỡ đầu vào học tại Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn do Hòa Thượng Thích Thiện Hòa làm Giám đốc. Cũng trong năm nầy Ngài chính thức thọ Sa di giới tại chùa Ấn Quang do Hòa Thượng Thích Huệ Quang làm đàn đầu.

Năm Bính Thân (1957), Hòa Thượng thọ Cụ Túc Giới tại giới đàn chùa Hải Đức, Nha Trang vào các ngày mồng 7, 8 và 9 tháng Chạp năm Bính Thân (nhằm ngày 07,08 và 09-01 năm 1957 do Hòa Thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu truyền giới.

 

2. Phục vụ đạo pháp :

 

Năm Canh Tý (1960) sau khi tốt nghiệp Phật học đường Nam Việt, Ngài được ban Giám đốc cử làm kiểm khán và Giáo thọ Phật Học Viện Giác Sanh (chi nhánh Phật học đường Nam Việt). Đồng thời, Ngài tham gia vào ban Giảng sư của Hội Phật học Nam Việt đi giảng dạy tại các chùa như Vạn Thọ, Giác Nguyên, Phổ Quang v..v... Cùng thời gian này, Ngài mở các  khóa Giáo lý cho các cư sĩ tại gia cũng như thành lập các Niệm Phật Đường tại Ngã tư Bảy Hiền và Phú Thọ Hòa, quy tụ bà con Phật tử người Quảng Nam vào lập nghiệp miền Nam tu học.

Năm Tân Sửu (1961) để đầy đủ giới pháp trước khi về quê hương hành đạo, Hòa thượng đã thọ Bồ tát giới tại chùa Ấn Quang do Hòa Thượng Khánh Anh làm Đàn đầu.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1962), Ngài trở về chùa Long Tuyền. Lúc nầy Hòa Thượng Đương Như đã già yếu nên giao việc Trụ trì để Ngài tiếp tục gánh vác Phật sự mà Thầy Tổ đã dày công gây dựng. Năm nầy, Ngài được chư tôn đức mời giữ chức vụ Trị sự phó Giáo hội Tăng già Quảng Nam, kiêm Giảng sư của Tỉnh hội.

Tháng 3 năm Quý Mão (1963), Hòa Thượng được mời giữ chức vụ Trị sự Trưởng Giáo hội Tăng già Quảng Nam. Cũng trong năm nầy, Phật giáo rơi vào Pháp nạn, Hòa Thượng là một trong những nhà lãnh đạo Phật giáo Quảng Nam tranh đấu cho sự trường tồn của Chánh pháp.

Năm Giáp Thìn (1964) GHPGVNTN Tỉnh Quảng Nam thành lập, Hòa thượng được cử giữ chức vụ Đặc ủy Tăng sự qua các nhiệm kỳ.

Năm Ất Tỵ (1965) trường Trung học Bồ Đề Hội An thành lập, Hòa Thượng được mời giữ chức Giám đốc của trường.

Năm Bính Ngọ (1966), Ngài đảm nhận chức vụ Chánh Đại Diện GHPGVNTN Tỉnh Quảng Nam.

Kể từ ngày kế nghiệp Trụ trì chùa Long Tuyền, hằng năm Ngài đều tập  chúng An cư tại đây. Từ đó, việc An cư tập trung của chư Tăng Quảng Nam được hình thành, song song với công việc nầy Ngài còn tổ chức tu Bát Quan Trai cho Phật tử tại gia và duy trì suốt mấy thập kỷ qua.

Vào các năm 1962, 1963, 1965, 1967, 1974 Ngài thường mở các đàn giới Sa di để truyền trao giới pháp cho hàng xuất gia. Trong các đàn giới nầy, Ngài thường giữ chức Yết Ma hoặc Giáo thọ.

Là một người luôn ưu tư cho sự giáo dục đào tạo Tăng tài của Phật giáo Tỉnh nhà, vào năm Canh Tuất (1970) Hòa Thượng xin phép Tổng Vụ Giáo Dục mở Phật học Viện tại chùa Long Tuyền, đã được Tổng vụ cho phép và bổ nhiệm Ngài chức vụ Giám viện Phật Học Viện. Ngài liền cấp tốc mở lớp Trung Đẳng đặc biệt để đào tạo cán bộ kịp thời cho Giáo hội.

Tiếp theo năm 1972 mở lớp Trung Đẳng Chính quy qui tụ học Tăng các Tỉnh miền Trung theo học gần 50 vị. Đến năm 1975 vì điều kiện khách quan nên Phật Học Viện không hoạt động nữa.

Sau năm 1975, Hòa Thượng nghỉ tất cả các chức vụ của Giáo hội và lui về tu niệm. Ngài hành trì Pháp môn Tịnh độ và xiển dương giáo nghĩa của Pháp môn nầy.

Năm Ất sữu (1985) Hòa thượng khai giới đàn truyền Cụ túc tại chùa Long Tuyền và được cung thỉnh làm đàn đầu Hòa Thượng.

Trong suốt cuộc đời tu hành, Hòa Thượng đã biên soạn và dịch một số tác phẩm như sau:

-         Lịch sử Phật giáo Việt Nam

-         Danh Tăng Tự Viện Phật giáo Quảng Nam

-         Chùa Long Tuyền xưa và nay

-         Thập đại đệ tử Phật (dịch)

-         Đại cương ý nghĩa kinh Địa Tạng (dịch)

-         Tứ đại và tứ đại chủng (dịch)

Phần lớn những tác phẩm của Ngài đều in dưới dạng lưu hành nội bộ để phổ biến cho Tăng, Ni, Phật tử trong tỉnh tham cứu.

Kể từ khi Trú trì chùa Long Tuyền đến nay, Hòa Thượng từng bước trùng tu, kiến thiết các công trình qua các giai đoạn như sau: Tăng đường năm 1965 Thiền đường năm 1969, Giảng Đường Phật Học Viện năm 1970, Tháp Đa Bảo trùng tu năm 1984, Hộ pháp đường và Công đức Hoa viên năm 1989, Đài Quán Thế Âm  năm 1990, ao Thất bảo  năm 1992. Đặc biệt vào năm 1993, Hòa Thượng đại trùng tu Chánh điện và Tổ đường nguy nga tráng lệ.

Năm 1997, GHPGVN Tỉnh Quảng Nam thành lập, Hòa thượng được cung thỉnh làm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam cho đến bây giờ.

Với công phu tu tập tự thân và công đức sâu dày của Hòa Thượng trong sự nghiệp Hoằng pháp lợi sạnh, Hòa Thượng đã được TW.GHPGVN tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng trong kỳ đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ IV (2002-2007) đồng thời được cung thỉnh vào Hội đồng Chứng Minh GHPGVN.

Dưới sự dạy dỗ của Ngài, hàng đệ tử đã có nhiều vị thành danh, đã thừa đương những Phật sự tại Quảng Nam trước đây như: Cố Hòa Thượng Thích Như Luận, Cố Hòa Thượng Thích Như Nhiệm, cố Hòa Thượng Thích Giải Trọng Hiện tại có các vị như Hòa Thượng Thích Như Phẩm, chư Thượng Tọa Thích Như Dũng, Thích Như Tường tiếp tục chăm lo Phật sự tại bổn tự.

Chư Tăng tham học các khóa tại Phật Học Viện Long Tuyền do Ngài làm Giám Viện hiện còn các vị như Hòa Thượng Thích Hạnh Lạc, Hòa Thượng Thích Trí Thắng, Trưởng và Phó ban Trị sự Tỉnh Quảng Ngãi; Thượng Tọa Thích Đồng Nguyện, Trưởng ban Hoằng Pháp Ban Trị sự Tỉnh hội Quảng Nam, Thượng Tọa Thích Nguyên Minh Trụ trì chùa Kim Sơn Nha Trang. v..v...

 

III/- Những ngày cuối đời và giờ phút viên tịch.

 

Thời gian thấm thoát trôi qua, đời người cũng đã về chiều, Ngài thấy sức khỏe giảm đi nhiều nên giao tất cả mọi Phật sự tại chùa cho chúng đệ tử, còn Ngài nghiêm mật trì danh niệm Phật buông bỏ mọi duyên.

Kể từ năm Bỉnh thân 1957 Ngài tấn đàn thọ cụ túc đến năm Bính Thân nầy là vừa đúng 60 hạ lạp. Sau lễ kỷ niệm Phật Đản sinh PL 2560, DL 2016, chư Tăng vào mùa An cư kiết hạ mới được mấy ngày thì vào chiều tối ngày 22 tháng 4 năm Bính Thân, không bệnh tật gì Ngài nhóm họp đệ tử dặn dò rồi an nhiên viên tịch vào lúc 17g50' (tức giờ Dậu) Hưởng thọ 86 tuổi và 60 hạ lạp.

Nam mô tân viên tịch từ Lâm Tế chánh tông tứ thập thế Trụ trì Long Tuyền Tự húy thượng Chơn hạ Phát, tự Đạo Dũng, hiệu Long Tôn Hòa Thượng giác linh chứng giám.

                                   

Môn Đồ Pháp Quyến kính soạn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4887)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7185)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4223)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4846)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5616)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6207)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3835)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5269)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5338)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12987)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567