Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một đời người đầy ý nghĩa

27/05/201608:01(Xem: 4671)
Một đời người đầy ý nghĩa


nguyen-minh-can-60
Một đời người  đầy ý nghĩa

(Những lời tiễn biệt chú Nguyễn Minh Cần)

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng, Ni đã từ  xa  tới đây chứng minh cho tang lễ của chú Thiện Mẫn

Kính thưa quý bà con phật tử cùng toàn thể các cô, bác, anh,chị, em bè bạn xa gần  đến đây chia tay với chú Nguyễn Minh cần.

Lần cuối cùng gặp chú, ngày 25-4, chú Nguyễn Minh Cần chuyển cho tôi tập giấy tờ của chùa và nói rằng, đây chú chuyển cho cháu toàn bộ giấy tờ của chùa nhé. Chú hoàn thành nhiệm vụ rồi đấy. Nhẹ cả người! Nói rồi chú cười rất thoải mái, ngồi ngả người trên ghé, đúng dáng vẻ nhẹ cả người thật.

Hóa ra đó là những lời cuối cùng tôi được nghe chú nói. Đó cũng là lời chốt lại cho một đời người, một đời người đầy ý nghĩa của chú. Chú đã hoàn thành sứ mệnh mà cuộc đời trao cho chú với đầy đủ cả Dũng, Trí và Bi.

Cả cuộc đời chú đã hoàn thành chữ “Dũng” thật hoàn hảo. Năm 1945 khi chưa được 17 tuồi, vẫn còn là một  học sinh, chú Nguyễn Minh Cần đã tham gia khởi nghĩa ở quê nhà, góp phần dành lại độc lập cho đất nước. Tuổi 17, cái tuổi mà con người tưởng như chỉ biết ăn, biết chơi, chú đã là một chiến sỹ, không sợ hiểm nguy, tham gia những công việc của các bậc cha chú. Suốt 6 năm trường kỳ tham gia kháng chiến, chú đã không hề nản lòng nhụt chí.

 Chú đã sống với chữ Dũng của một đấng nam nhi như thế.

Năm 1962, lúc đó đã là phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, chú sang Liên Xô du học tại trường đảng cao cấp. Với lứa tuổi đó, với cương vị đó, nếu chú coi trọng địa vị thì chú sẽ đi rất xa. Thế nhưng những năm tháng học trong trường đảng, được tiếp xúc với những tài liệu về Stalin, chú đã dám nói lên quan điểm riêng của mình, ủng hộ đường lối chống tệ sùng bái cá nhân của Liên Xô lúc đó, ủng hộ những gì mà chú thấy nhân bản hơn, công bằng hơn.

Sau này khi Liên Xô bắt đầu quá trình cải tổ, đổi mới với khẩu hiệu Perestroika của Tổng bí thư Gorbachov, chú đã tích cực ủng hộ đường lối dân chủ của Liên Xô, và sau này là nước Nga. Những ngày chế độ dân chủ của nước Nga bị nguy hiểm, chú không ngần ngại đi biểu tình, tham gia phòng tuyến của phong trào dân chủ ở Nga, tham gia bảo vệ nước Nga.

Rất nhiều năm chú không xin vào quốc tịch Nga, chú vẫn mong có ngày được trở về Việt Nam đóng góp công sức cho Tổ quốc thân yêu của mình. Sau này khi có điều kiện chú đã dành tất cả nhiệt huyết, thời gian cho công cuộc vận động dân chủ ở Việt Nam. Chú là một chứng nhân của một thời kỳ lịch sử nhiều sự kiện ở Việt Nam. Thời gian trôi qua những nhân chứng sống này rồi sẽ lần lượt ra đi, chú biết như vậy nên mấy chục năm qua cho đến tận trước ngày vào viện và ra đi vĩnh viễn, chú đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm để viết lại những gì chú đã là nhân chúng, nhữnggì chú đã biết. Đây cuốn “công lý đòi hỏi” được in năm 1997 để nói lên bao chuyện oan trái, bao nhiêu nỗi đau của những nạn nhân các vụ án oan khiên từ vụ nhân văn giai phẩm những năm 50 đến vụ án xét lại chống đảng những năm 60 thế kỷ trước. Đây cuốn “chuyện nước non” in năm 1999 chú đã dành bao nhiêu tâm trí để viết lên những suy nghĩ về những chính sách mới hiện nay của đất nước, để bàn về phong trào dân chủ trong nước. Nhưng cuốn sách quan trọng nhất của chú là cuốn “đảng cộng sản Việt Nam qua những biến động của phong trào cộng sản quốc tế” để viết về 70 năm hình thành và phát triển của đảng cộng sản. Một cuốn sách vô cùng quan trọng về những gì chưa được viết, về những gì chưa được nói, để thế hệ mai sau biết những gì đã xảy ra chân thực và đầy đủ. Như chú viết trong lời tựa của cuốn sách, “Người viết tự thấy 
mình có trách nhiệm nói lên SỰ THẬT về những vấn đề này thay cho 
bạn bè thân mến của mình cùng chí hướng, cùng tư tưởng, cùng quan 
điểm đã nằm xuống mà không có điều kiện nói ra.”

 Chính vì cảm nhận được trách nhiệm của lương tâm mình với lịch sử, với bè bạn với những thế hệ mai sau, Chú đã bắt đầu viết cuốn sách này từ năm 2000, suốt mười mấy năm qua chú đã làm việc ngày đêm, tiết kiệm từng phút để kịp hoàn thành cuốn sách.  Và chú đã vừa kịp hoàn thành cuốn sách trước khi ra đi ít lâu. Hiện nay cuốn sách đã được lên khuôn, và ít ngày nữa sẽ được ra mắt độc giả. Chú đã thực hành hoàn hảo chữ Dũng của lương tâm như thế đấy.

Chú Cần là người một nhà khoa học với đúng nghĩa của từ cao quý này. Chú làm việc cẩn thận, có hệ thống, có trách nhiệm và đặc biệt với lương tâm của một người cầm bút, chỉ viết những gì mình biết, những gì đã được kiểm chứng.

Yêu ai thì bảo là yêu.

Ghét ai thì bảo là ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu.

Chỉ nhìn danh mục sách chú dịch, viết thôi cũng đủ hình dung được khối lượng khổng lồ công việc chú đã làm: 125 cuốn sách dịch, 6 cuốn sách nghiên cứu, hàng ngàn bài báo.

 Nhưng công trình đáng giá nhất của chú là cùng với cô Inna tìm ra đạo Phật, con đường tu tập tâm linh cho chính mình. Chú không chỉ tìm ra con đường tâm linh cho mình, mà còn dành hết hơn 20 năm cuối đời mình cho việc tổ chức, hoằng dương đạo Phật ở Moskva này. Nếu không có sự hy sinh hết lòng, tận tụy hết lòng của chú thì không thể có Hội Phật Giáo Thảo Đường và ngôi chùa Thảo Đường ngày hôm nay. Suốt hơn 20 năm, chú không hề bỏ một ngày rằm, ngày mồng 1 nào không lên chùa tụng kinh. Chùa dù vắng, dù đông, dù mưa, dù nắng chú đều có mặt đầy đủ, đúng giờ, làm lễ cho mọi người. Chú vui với chùa, buồn với chùa, lo lắng cho ngôi chùa như cho ngôi nhà yêu quý  của mình. Chỉ 2 tháng trước khi  ra đi, dù còn rất yếu sau cơn nhồi máu cơ tim hồi tháng 11 năm trước, chú vẫn nhận trách nhiệm điều hành Chùa khi mọi người đề nghị. Chú nói, chú đã phát nguyện phục vụ chùa đến hơi thở cuối cùng nên dù rất mệt chú vẫn cố gắng cáng đáng.

Chú đã là sống một cuộc đời của người đầy trí tuệ như thế đấy.

Hôm chú ra đi về cõi vĩnh hằng, tôi đến nhà để mang cho chú một bộ quần áo. Tìm cả tủ, tôi không thấy một chiếc áo nào còn tươm tất. Tất cả đều đã sờn vải, bạc mầu. Vậy mà hôm cuối cùng gặp chú, chú vừa tươi cười đưa cho tôi 5000 rúp, tiền tiết kiệm từ số lương hưu ít ỏi để cúng cho quỹ xây chùa. Đã mấy chục năm nay, chú vẫn luôn tiết kiệm tiền lương hưu của mình để ủng hộ chùa như thế. Toàn bộ tiền tiết kiệm của hai cô chú cho lúc tuổi già, chú đã cúng dường cho việc mua đất và xây dựng chùa Thảo Đường. Chú nói, chết là hết, có gì phải lo đâu, hãy để những đồng tiền này mang lại lợi ích cho những người còn sống. Trong mấy năm qua Chú đã ủng hộ cho quỹ xây chùa 100000 rúp và 8760 đô la mỹ.

Rất nhiều năm qua chú cùng vợ là cô Inna đã luôn tích cực làm các hoạt động từ thiện. Chú và cô quyên góp quần áo, đồ dùng cho nạn nhân động đất ở Armenia,nạn nhân phóng xạ ở Chernobyl, nạn nhân chiến tranh ở Chechnya, người vô gia cư ở Moskva. Mỗi người nghèo chỉ viết một mảnh giấy rất nhỏ để cám ơn cô, chú, vậy mà túi chứng từ làm từ thiện của chú và cô đã nặng gần chục kg giấy.  Không chỉ giúp người nghèo, chú còn cứu giúp chó, mèo hoang, nuôi chim, nuôi sóc trong rừng khi mùa đông hiếm thức ăn. Trong nhà chú luôn luôn có 2 thùng rác. Một thùng rác để vứt vào thùng rác chung, và 1 thùng rác dễ phân hủy để mang bỏ vào rừng nuôi đất.

Chú đã học được hạnh từ bi rộng lớn của đạo Phật và thực hành chữ Bi thật chuyên cần và hoàn hảo như thế.        

Sáng hôm 13-5, khi vừa được báo chú Cần đã không còn nữa, tôi đã đến gặp bác sỹ trực và hỏi điều gì xảy ra với chú những giờ phút cuối cùng. Bác sỹ nói rằng tối hôm đó mọi việc diễn ra bình thường, an ổn, chú không đau đớn gì, đột nhiên đến 4 giờ sáng chú khó thở và đến 5 giờ thì trút hơi thở cuối cùng. Chú ra đi trong sự tỉnh táo và bình yên, không đau đớn gì.  Những gì cần làm đã làm xong, những gì phải làm đã hoàn thành. Không còn gì phải nuối tiếc.

Chú Cần ơi, chúng cháu sẽ thay chú chăm sóc cô Inna, tiếp tục công việc hoàn thành ngôi chùa Thảo Đường, xin chú hãy yên tâm CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC, trở về trong vòng tay yêu thương của Phật, trở về nơi cõi an vui vĩnh hằng và tiếp tục con đường tu tập của mình cho đến ngày viên thành đạo quả.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5388)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5835)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6815)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5848)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10226)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8258)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13357)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5575)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13354)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6356)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567