Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Quảng Liên

10/04/201311:22(Xem: 9774)
Hòa Thượng Thích Quảng Liên

htthichquanglien

Hòa Thượng Thích Quảng Liên
(1926-2009)



GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỔ ĐÌNH TU VIỆN QUẢNG ĐỨC

****

CÁO BẠCH

Ban Đại Diện Quận Hội Phật Giáo Quận Thủ Đức
Môn Đồ Pháp Quyến Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức

Chân thành kính báo:
Đức Đại Lão Hoà Thượng Thượng QUẢNG Hạ LIÊN
Viện chủ Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức
Chứng minh Ban Đại Diện Phật Giáo Quận Thủ Đức – Q.2 – Q.9
Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Sự
Nguyên Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề
Xuất thế năm Bính Dần ( 1926 ) tại Vịnh Xuân Đài – Huyện Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên.

Hoà thượng đã an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 12h15 ngày 28 tháng 05 năm 2009 ( nhằm ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu ), tại Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức.

Trụ thế 84 năm – Hạ lạp 60 năm
-
Lễ nhập kim quan được long trọng cử hành vào lúc 08h00 ngày 29 tháng 05 năm 2009 ( nhằm ngày 06 tháng 05 năm Kỷ Sửu )
- Kim quan được tôn trí tại Giảng đường Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức – Số 33 Đường Đặng Văn Bi – P. Trường Thọ – Q. Thủ Đức – Tp. HCM.
- Lễ tưởng niệm và cung tống kim quan nhập bảo tháp được cử hành vào lúc 07h00 ngày 03 tháng 06 năm 2009 ( nhằm ngày 11 tháng 05 năm Kỷ sửu ) tại khuôn viên Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức.

Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn Đồ Pháp Quyến

Đồng Kính Báo


CHÙA LIÊN HOA
image001
9561 Bixby Ave., Garden Grove, CA 9284, U.S.A.
Tel.: (714) 636-7725
__________________________________

Môn Ðồ Pháp Quyến

CÁO PHÓ

Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật

Môn Ðồ Pháp Quyến thành kính báo tin đến Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng Ni, các tổ chức đoàn thể Phật giáo và toàn thể quý Phật tử:

Hòa Thượng thượng Quảng hạ Liên

Bổn Sư của chúng tôi đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch 11:45’ trưa, ngày 28 tháng 5 năm 2009 (nhằm ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu) tại Tu Viện Quảng Ðức, Thủ Ðức, Sàigòn Việt Nam. Thế thọ 84, Lạp thọ 64.

Lễ thọ tang được cử hành vào lúc:

3 giờ chiều, Chủ Nhật, ngày 31 tháng 05 năm 2009
tại CHÙA LIÊN HOA

Nhất tâm đảnh lễ Giác linh Hòa Thượng Bổn Sư Cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta bà hóa độ chúng sinh.

Nay Cáo Phó,

Garden Grove, ngày 27 tháng 05 năm 2009
Môn Ðồ Pháp Quyến,

Sa Môn Thích Chơn Thành



htthichquanglien

TIỂU SỬ

ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THƯỢNG QUẢNG HẠ LIÊN

VIỆN CHỦ TỔ ĐÌNH TU VIỆN QUẢNG ĐỨC

  1. Thân thế:


Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD. Nhựt Sanh giáo dục trong khuôn phép truyền thống, nề nếp gia phong trên nền tảng giáo lý Phật đà, là chất liệu để di dưỡng tứ vô lượng tâm, hình thành nơi ngài tinh thần hướng thượng, hướng thiện.

Aáu thời, ngài được song thân cho học ở Trường Tiểu học Quận, vốn sẵn tính thông minh, thiện nết, được Thầy Bạn thương yêu, ngài dốc lòng học tập mở rộng kiến thức. Sau một thời gian, ngài được gởi đi học trường Pháp Việt Tỉnh lỵ Sông Cầu, đây là cơ duyên để thăng tiến tự thân, cũng chính thời gian này Hoà thượng tham gia Đoàn Đồng Aáu Phật Tử, thường lui tới viếng thăm, tu học tại Tỉnh Hội Phật học Phú Yên, khuôn Tịnh Độ địa phương. Chí nguyện xuất trần thượng sĩ cũng bén rễ từ đây, khơi dậy trong ngài chủng tử thiện lành từ vô lượng kiếp.

  1. Thời kỳ xuất gia tu học:


Túc duyên sẵn có, năm 1940 tại Chùa Vĩnh Long ngài được hội kiến với Cố Đại Lão Hoà Thượng Thượng Vĩnh Hạ Thọ, Hòa thượng được Ngài Vĩnh Thọ trao truyền Tam quy ngũ giới với pháp danh là Quảng Liên và nhân cơ duyên hạnh ngộ này Hòa thượng đã trình bày tâm nguyện xuất gia của mình được Ân sư hứa khả, nhưng song thân không cho phép nên sở nguyện của Ngài chưa được thành tựu. Trước tinh thần cầu đạo giải thoát, tâm nguyện tha thiết được trở thành trưởng tử Như Lai của Ngài, đến năm 1941 Hoà thượng Thượng Vĩnh Hạ Thọ hoan hỷ cử hành nghi thức thế phát cho Ngài, nhưng không cạo tóc để chờ sự cho phép của song thân. Và Hoà thượng được Bổn Sư ban cho Pháp hiệu là Trí Hải, Tự là Bi Hoa.

Thế rồi thắng duyên lại đến, mùa trăng tròn giữa thu năm 1942, khi Chư Tăng Tỉnh Phú Yên do Ngài Quảng Đạt hướng dẫn vào nam tu học, thì Hoà thượng cũng chính thức xuống tóc và theo đoàn khất sĩ lên đường thực hiện hạnh nguyện của mình. Với hình ảnh những chàng thanh niên hiếu học, sống thiện lành, phát tâm dấn thân cầu đạo giải thoát đã làm xúc động lòng người, Ông Tỉnh Trưởng, và Bố Chánh Tỉnh Phú Yên mở tiệc chia tay và cũng nói lên lòng quý mến. Dòng Tam Giang êm đềm trôi chảy mang theo tâm nguyện của ngài, ánh trăng giữa thu soi rọi con đường tìm chân lý mà Hoà thượng đã phát tâm lập nguyện từ thuở ấu thời nay thành tựu.

Bước vân du của Ngài từ Ga Chí Thạnh, đến Nha Trang, Phan Thiết, Sài Gòn và cuối cùng là Phật học đường Lưỡng Xuyên với 4 năm dày công tu học, hành trì. Trong thời gian này, Ngài được truyền Sa Di Giới.

Năm 1947, Ngài về trụ tại Chùa Phật Quang, Trà Ôn vài tháng sau đó về tu học tại Phật học đường Liên Hải – Chợ Lớn, Ngài phát tâm đảm nhiệm công việc phụ trách tài chánh, chăm lo kinh tế cho Phật học viện. Đến giữa năm 1947, nhận thấy thời thế không yên nên Ngài cùng với Hòa thượng Trí Minh kết nghĩa, cùng nhau lên đường ra Huế học Bậc Cao Đẳng Phật học tại Báo Quốc – Huế.

Sau 2 năm tham học tại đất thần kinh qua đi, năm 1949 Ngài trở về Liên Hải Phật học đường tiếp tục tu học, và tại giới đàn do Phật học đường tổ chức ngài đăng đàn thọ cụ túc giới do Cố Đại Lão Hoà thượng Thượng Liễu Hạ Thiền đương vi đàn đầu Hoà thượng truyền trao giới pháp.

Năm 1951, Phật giáo Việt Nam hoà mình cùng Phật giáo Thế giới, Ngài được Tổng Trị Sự Phật Giáo Việt Nam cử đại diện cho Hội Phật học Nam Việt cùng với 2 ngài Hoà thượng Minh Châu – Đại diện cho Hội Phật Giáo Trung Việt, Hoà Thượng Quảng Độ – Đại diện cho Phật Giáo Bắc Việt đi du học tại Trường Phật Giáo Thế Giới Colombo – Tích Lan, Trường Đại học Quốc Gia KanDy, Tích Lan và Ngài tốt nghiệp Cử nhân năm 1956.

Cuối năm 1956, Hoà thượng nhận được học bổng của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ liên kết với Cơ quan văn hoá Hoa Kỳ tiếp tục xuất ngoại học tại Đại học Yale, một trường Đại học danh tiếng của Mỹ Quốc. Đến năm 1960, Hoà thượng trình luận án tốt nghiệp chuyên ngành nghiên cứu về vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, . . . Đông Nam Á, và được công nhận học vị Tiến Sĩ.

Đây là cả một quá trình mà Ngài đã dày công huân tập, thăng tiến tự thân để góp phần phụng sự đạo pháp – phụng sự chúng sanh sau này.

3.Thời kỳ hành đạo:


* Công Hạnh Hoằng Dương Chánh Pháp:

Công hạnh hoằng dương chánh pháp của Cố Đại Lão Hoà Thượng là dấu son in đậm trong trang sử Phật giáo, dân tộc mà hơn 50 năm ứng thân giữa cõi phàm trần Ngài đã thể hiện trọn vẹn qua từng chức vụ, từng vai trò khác nhau, trong từng lĩnh vực khác nhau nhưng hiện lên rõ nét nhất ngài là một nhà Giáo dục mô phạm, sự nghiệp giáo dục được ngài tâm niệm thực hiện suốt cuộc đời mình.

Năm 1950, Ngài cùng với Cố HT. Thiện Hoà, HT. Quảng Minh, Ngài Huyền Dung, Ngài Trí Huệ thành lập Phật học đường Nam Việt, và Hoà thượng cùng với Cụ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền, thành lập Hội Phật học Nam Việt, Ngài được cử làm Trưởng Ban Hoằng Pháp đầu tiên của Hội. Đến năm 1951, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt ra đời cũng ghi nhận công đức sáng lập của Hoà thượng. Đây là những hội Phật học đầu tiên tại Miền Nam được tổ chức quy cũ, thực hiện công cuộc Chấn Hưng Phật Giáo.

Sau khi được công nhận học vị Tiến sĩ, Hoà thượng trở về Việt Nam tiếp tục công hạnh hoằng dương chánh pháp, với tinh thần “ nhiêu ích hữu tình, lợi lạc quần sanh”, trong giai đoạn 1960 – 1975 ngài được mời giữ chức vụ Cố Vấn cho Ủy ban Văn hoá Châu Á, Giáo sư Đại học Văn Khoa.

Năm 1963, Mùa Pháp Nạn của Phật giáo Việt Nam, Hoà thượng tham gia Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật Giáo trong vai trò Ủy viên Dân Sự thực hiện nhiệm vụ tổ chức nam nữ thanh niên, Sinh viên, học sinh để tranh đấu chống lại bạo quyền nhà Ngô để bảo vệ Phật Pháp, Hoà thượng bị bắt từ đêm 20/08 đến ngày 24/10/1963 mới được về Chùa.

Cuối năm 1963, đầu năm 1964 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài giữ chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Sự ( Văn Hoá – Giáo dục – Xã hội ), ngài sáng lập và xây dựng hệ thống Trường Bồ Đề trên cả nước và giữ nhiệm vụ Hiệu Trưởng Giám Đốc Trung học Bồ Đề Sài Gòn – Chợ Lớn ( nay là Trường Đồng Khởi )

Năm 1965, Đại Lão Hoà thượng đại diện GHPGVNTN tham dự Đại hội thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới tại Colombo ( Tích Lan ) và được cử làm Ủy viên Giáo dục Phật Giáo Thế Giới. Đến năm 1970 ngài tham dự Hội nghị thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Thế Giới tổ chức tại Hàn Quốc, Hoà thượng được mời giữ chức vụ Ủy viên Giáo dục. Cùng năm đó, Hòa thượng dự Hội nghị Giáo sư tự do Thế giới tại Colombo ( Tích Lan ), và được nhận chứng chỉ Giáo sư Quốc tế.

Với tâm nguyện xây dựng nền hoà bình dân tộc, đem lại an lạc cho đồng bào thân thương, nên năm 1965 Ngài sáng lập được mời giữ chức vụ Chủ tịch Hoà Bình.

Từ năm 1964 đến năm 1975 tròn một thập niên ngài đóng góp nhiều cho sự nghiệp giáo dục trong nhiều vai trò như: Cố vấn Hội Việt Mỹ, Chủ tịch Hội đồng tư thục Việt Nam, Ủy viên Hội đồng cải tổ cập nhật hoá chương trình giáo dục, Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Giáo thọ sư tại các Giảng đường Phật học.

Sau năm 1975, vì tuổi cao sức yếu ngài lui về an trú tại Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức và tiếp tục công hạnh của mình bằng việc trước tác, biên phiên dịch tam tạng kinh điển, hoằng truyền giáo pháp Thích tôn, trong giai đoạn này Ngài được cung thỉnh Chứng Minh Ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM, Chứng minh Ban Đại Diện Phật Giáo Quận Thủ Đức, Quận 2, Quận 9.

Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003 là giai đoạn mà Ngài thực hiện những chuyến hành hương, chiêm bái, và hoằng pháp tại các nước Châu Á, Châu Âu. Đây là thời điểm mà pháp âm của Ngài đồng vọng trên khắp năm Châu.

* Công đức khai sơn tạo tự – Tiếp Tăng độ chúng – Truyền trao giới pháp:

Với bản hoài của Người xuất gia, suốt hơn 70 năm tu học và hành đạo ngài đã thực hiện thành tựu công đức khai sơn tạo tự, tiếp Tăng độ Chúng – Truyền trao giới pháp.

Năm 1962, Ngài về đất Thủ Đức khai sơn Chùa Liên Hải làm noi để tịnh tu.

Năm 1967 ngài khai sơn Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức làm cơ sở đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp, trãi qua nhiều giai đoạn trùng tu đến nay Tổ Đình là ngôi Tam Bảo trang nghiêm, là thắng tích được Tăng, Ni, Phật tử trong ngoài nước biết đến.

Dù nhiều Phật sự, tuổi cao sức yếu nhưng ngài không bao giờ xao lãng việc trùng hưng các ngôi Tam bảo như: Trùng tu Chùa Quảng Đạt – Phú Yên, khai sơn Tịnh Xá Quảng Liên, trùng tu các Tự viện trực thuộc Tổ Đình. Đặc biệt là góp phần trùng tu, xây dựng Chốn Tổ Trà Cú, Chùa Hoa Yên, Thắng Tích Yên Tử.

Một trong những phật sự mà Hoà thượng thực hiện thành tựu đó là phật hoá gia đình, trong đó tiếp độ 2 Anh là HT. Chơn Ngộ, TT. Chơn Điển xuất gia cùng các cháu tiếp bước con đường của ngài phụng sự Tam bảo, hoá độ chúng sanh.

Đức độ của Ngài lan toả mười phương, Đại Lão Hoà thượng là vị ân sư, y chỉ sư của hơn 200 tăng ni đang là những sứ giả Như Lai trong và ngoài nước, là vị Thầy khả kính của hàng ngàn Phật tử luôn tâm niệm nương đức hạnh của Ngài để tu học, cần cầu giải thoát. Ngài còn chăm lo đến mầm non của Đạo Pháp bằng tất cả đức từ, Hòa thượng dang rộng vòng tay, thương yêu, chở che cho áo lam Gia Đình Phật Tử Việt Nam nương Tổ Đình tu học.

Năm 1971, nhân lễ Khánh thành Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức, Ngài đã kiến đàn truyền trao giới pháp cho hàng xuất gia, tại giới đàn này Cố Đại Lão Hòa thượng thượng Trí hạ Thủ được cung thỉnh làm đàn đầu Hòa thượng.

Với giới châu minh tịnh, nghiêm túc oai nghi, thanh cao tăng tướng đạo phong, Đại Lão Hoà Thượng được cung thỉnh làm giới sư truyền Đại Giới, Bồ Tát giới tại giới đàn Hàn Quốc năm 1971. Năm 1996, Ngài Đại vì Hoà thượng Đàn đầu truyền trao giới pháp cho các giới tử tại Đại Giới Đàn Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ngài còn là đương vi Đàn Đầu Hoà Thượng tại các giới đàn phương trượng ở các chốn Tổ Già Lam và các Trú xứ, hàng ngàn giới tử đắc giới thể và nương Ngài tấn tu đạo nghiệp.

* Công đức Biên phiên dịch tam tạng kinh điển:

Biên phiên dịch Tam Tạng Kinh điển là Phật sự mà suốt cuộc đời Ngài lưu tâm, thực hiện góp phần lưu truyền chánh pháp, với các tác phẩm:

-Kinh Dược Sư

-Kinh Viên Giác

-Kinh Nhật Tụng ( Nghĩa )

-Kinh Vu Lan – Báo Hiếu

-Tu bát quan trai giới

-Đại Thừa Khởi Tín Luận

-Phật Giáo hiện đại

-Tư tưởng Phật giáo

-Bổn phận người Phật tử

-Hai bài thuyết pháp Phật giáo Anh Việt

-Phật Giáo và triết học Tây Phương

-Sử cương triết học Ấn Độ

-Duy thức học

-Trung Quán Luận


Ngoài ra hiện nay còn nhiều tác phẩm, nhiều công trình chưa xuất bản đã nói lên công hạnh của Ngài đối với Đạo Pháp – Dân tộc.

  1. Những ngày tháng cuối cùng:


Theo định luật vô thường, thân tứ đại của Ngài theo ngày tháng cũng bị chi phối, pháp thể khiếm an vì bệnh duyên, tuổi cao sức yếu nhưng Hoà thượng vẫn an nhiên, hoan hỷ sách tấn thất chúng đệ tử tu học, tiếp tục con đường của Ngài.


Vào ngày 19 tháng 03 năm Kỷ Sửu Hoà thượng mộng thấy Trời Đế Thích cung thỉnh ngài thuyết pháp, sau đó ngày 20/03 Hoà thượng nhuốm bệnh và phải nhập viện vì tứ đại khiếm an. Sau thời gian điều trị, Hoà thượng nhận biết cơ duyên hóa độ nơi cõi Ta bà sắp mãn, Ngài dạy chúng đệ tử đưa ngài về Tu Viện để tịnh dưỡng.

Tối ngày 23/03 Hoà thượng phó chúc Phật sự, khuyến tấn tu trì đệ tử xuất gia. Sau đó ngài dạy thất chúng đồng nhiếp tâm niệm phật, và kể từ lúc 00h00 ngày 24/03 ngài không dùng thuốc, không thở bằng bình oxy, nhiếp tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tịnh Độ.

Thuận thế vô thường, Đức Đại Lão Hòa thượng an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 12h15 ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu ( nhằm ngày 28 tháng 05 năm 2009 ) trụ thế 84 năm, hạ lạp 60 năm.

Khép lại 84 năm hiện hữu cõi Ta Bà, 70 năm tu học, hoằng dương chánh pháp Đại Lão Hoà thượng Thượng Quảng Hạ Liên ghi đậm dấu son trong lịch sử Phật giáo, dân tộc với hình ảnh của nhà Giáo dục mô phạm, vị Pháp sư tinh thông nội ngoại điển, Thạch trụ giữa thiền môn, là cội bồ đề cao cả, là bóng mát che chở đàn hậu tấn.

Vẫn biết rằng ngôn ngữ thế gian không thể chuyển tải hết công hạnh và đức độ của ngài, nhưng chúng con xin ghi lại đây đôi dòng tiểu sử như nén tâm hương thành kính dâng lên Giác Linh Đại lão Hoà thượng Tân viên tịch với tất cả lòng cung kính, tri ân.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Ngũ Thế, Khai Kiến Quảng Đức Tu Viện Tổ Đình, huý Thượng QUẢNG Hạ LIÊN, Tự BI HOA, Hiệu TRÍ HẢI, Nguyễn Công Đại Lão Hoà thượng Giác linh thuỳ từ chứng giám.


htthichquanglien



Cung Tiển Giác Linh

Xin đại diện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu gồm Úc châu, Âu châu, Hoa Kỳ và Canada nhất tâm nguyện cầu giác linh:

Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Liên
nguyên Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề Sài Gòn trước năm 1975
Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức - Thủ Đức

Là Bổn Sư của Hòa Thượng Thích Chơn Thành, Viện Chủ Chùa Liên Hoa, Garden Grove, CA, USA và Hòa Thượng Thích Chơn Minh.

Sanh năm Bính Dần ( 1926 )
Vãng sanh ngày
28 tháng 05 năm 2009tại Việt Nam
trụ thế 84 năm, Hạ lạp 60 năm


được cao đăng Phật quốc và sớm hội nhập Ta Bà để phổ độ chúng sanh.

Xin chia xẻ những hiện tượng sanh diệt của thế gian và cầu nguyện cho Hòa Thượng Thích Chơn Thành cũng như Hòa Thượng Thích Chơn Minh có đầy đủ dũng lực để hướng về cõi vô sanh của Hòa Thượng Bổn Sư.

Kính nguyện

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

TM. Hội Đồng Điều Hợp

GHPGVNTN Liên Châu


Hòa Thượng Thích Minh Tâm

Chánh văn phòng

Hình ảnh Tang lễ

DSC_7347 (177)
(xem tiếp)

----o0o---


Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7057)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6659)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6954)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1043)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 34019)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4769)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4694)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4657)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4601)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4941)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567