Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Quảng Liên

10/04/201311:22(Xem: 9687)
Hòa Thượng Thích Quảng Liên

htthichquanglien

Hòa Thượng Thích Quảng Liên
(1926-2009)



GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỔ ĐÌNH TU VIỆN QUẢNG ĐỨC

****

CÁO BẠCH

Ban Đại Diện Quận Hội Phật Giáo Quận Thủ Đức
Môn Đồ Pháp Quyến Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức

Chân thành kính báo:
Đức Đại Lão Hoà Thượng Thượng QUẢNG Hạ LIÊN
Viện chủ Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức
Chứng minh Ban Đại Diện Phật Giáo Quận Thủ Đức – Q.2 – Q.9
Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Sự
Nguyên Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề
Xuất thế năm Bính Dần ( 1926 ) tại Vịnh Xuân Đài – Huyện Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên.

Hoà thượng đã an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 12h15 ngày 28 tháng 05 năm 2009 ( nhằm ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu ), tại Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức.

Trụ thế 84 năm – Hạ lạp 60 năm
-
Lễ nhập kim quan được long trọng cử hành vào lúc 08h00 ngày 29 tháng 05 năm 2009 ( nhằm ngày 06 tháng 05 năm Kỷ Sửu )
- Kim quan được tôn trí tại Giảng đường Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức – Số 33 Đường Đặng Văn Bi – P. Trường Thọ – Q. Thủ Đức – Tp. HCM.
- Lễ tưởng niệm và cung tống kim quan nhập bảo tháp được cử hành vào lúc 07h00 ngày 03 tháng 06 năm 2009 ( nhằm ngày 11 tháng 05 năm Kỷ sửu ) tại khuôn viên Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức.

Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn Đồ Pháp Quyến

Đồng Kính Báo


CHÙA LIÊN HOA
image001
9561 Bixby Ave., Garden Grove, CA 9284, U.S.A.
Tel.: (714) 636-7725
__________________________________

Môn Ðồ Pháp Quyến

CÁO PHÓ

Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật

Môn Ðồ Pháp Quyến thành kính báo tin đến Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng Ni, các tổ chức đoàn thể Phật giáo và toàn thể quý Phật tử:

Hòa Thượng thượng Quảng hạ Liên

Bổn Sư của chúng tôi đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch 11:45’ trưa, ngày 28 tháng 5 năm 2009 (nhằm ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu) tại Tu Viện Quảng Ðức, Thủ Ðức, Sàigòn Việt Nam. Thế thọ 84, Lạp thọ 64.

Lễ thọ tang được cử hành vào lúc:

3 giờ chiều, Chủ Nhật, ngày 31 tháng 05 năm 2009
tại CHÙA LIÊN HOA

Nhất tâm đảnh lễ Giác linh Hòa Thượng Bổn Sư Cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta bà hóa độ chúng sinh.

Nay Cáo Phó,

Garden Grove, ngày 27 tháng 05 năm 2009
Môn Ðồ Pháp Quyến,

Sa Môn Thích Chơn Thành



htthichquanglien

TIỂU SỬ

ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THƯỢNG QUẢNG HẠ LIÊN

VIỆN CHỦ TỔ ĐÌNH TU VIỆN QUẢNG ĐỨC

  1. Thân thế:


Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD. Nhựt Sanh giáo dục trong khuôn phép truyền thống, nề nếp gia phong trên nền tảng giáo lý Phật đà, là chất liệu để di dưỡng tứ vô lượng tâm, hình thành nơi ngài tinh thần hướng thượng, hướng thiện.

Aáu thời, ngài được song thân cho học ở Trường Tiểu học Quận, vốn sẵn tính thông minh, thiện nết, được Thầy Bạn thương yêu, ngài dốc lòng học tập mở rộng kiến thức. Sau một thời gian, ngài được gởi đi học trường Pháp Việt Tỉnh lỵ Sông Cầu, đây là cơ duyên để thăng tiến tự thân, cũng chính thời gian này Hoà thượng tham gia Đoàn Đồng Aáu Phật Tử, thường lui tới viếng thăm, tu học tại Tỉnh Hội Phật học Phú Yên, khuôn Tịnh Độ địa phương. Chí nguyện xuất trần thượng sĩ cũng bén rễ từ đây, khơi dậy trong ngài chủng tử thiện lành từ vô lượng kiếp.

  1. Thời kỳ xuất gia tu học:


Túc duyên sẵn có, năm 1940 tại Chùa Vĩnh Long ngài được hội kiến với Cố Đại Lão Hoà Thượng Thượng Vĩnh Hạ Thọ, Hòa thượng được Ngài Vĩnh Thọ trao truyền Tam quy ngũ giới với pháp danh là Quảng Liên và nhân cơ duyên hạnh ngộ này Hòa thượng đã trình bày tâm nguyện xuất gia của mình được Ân sư hứa khả, nhưng song thân không cho phép nên sở nguyện của Ngài chưa được thành tựu. Trước tinh thần cầu đạo giải thoát, tâm nguyện tha thiết được trở thành trưởng tử Như Lai của Ngài, đến năm 1941 Hoà thượng Thượng Vĩnh Hạ Thọ hoan hỷ cử hành nghi thức thế phát cho Ngài, nhưng không cạo tóc để chờ sự cho phép của song thân. Và Hoà thượng được Bổn Sư ban cho Pháp hiệu là Trí Hải, Tự là Bi Hoa.

Thế rồi thắng duyên lại đến, mùa trăng tròn giữa thu năm 1942, khi Chư Tăng Tỉnh Phú Yên do Ngài Quảng Đạt hướng dẫn vào nam tu học, thì Hoà thượng cũng chính thức xuống tóc và theo đoàn khất sĩ lên đường thực hiện hạnh nguyện của mình. Với hình ảnh những chàng thanh niên hiếu học, sống thiện lành, phát tâm dấn thân cầu đạo giải thoát đã làm xúc động lòng người, Ông Tỉnh Trưởng, và Bố Chánh Tỉnh Phú Yên mở tiệc chia tay và cũng nói lên lòng quý mến. Dòng Tam Giang êm đềm trôi chảy mang theo tâm nguyện của ngài, ánh trăng giữa thu soi rọi con đường tìm chân lý mà Hoà thượng đã phát tâm lập nguyện từ thuở ấu thời nay thành tựu.

Bước vân du của Ngài từ Ga Chí Thạnh, đến Nha Trang, Phan Thiết, Sài Gòn và cuối cùng là Phật học đường Lưỡng Xuyên với 4 năm dày công tu học, hành trì. Trong thời gian này, Ngài được truyền Sa Di Giới.

Năm 1947, Ngài về trụ tại Chùa Phật Quang, Trà Ôn vài tháng sau đó về tu học tại Phật học đường Liên Hải – Chợ Lớn, Ngài phát tâm đảm nhiệm công việc phụ trách tài chánh, chăm lo kinh tế cho Phật học viện. Đến giữa năm 1947, nhận thấy thời thế không yên nên Ngài cùng với Hòa thượng Trí Minh kết nghĩa, cùng nhau lên đường ra Huế học Bậc Cao Đẳng Phật học tại Báo Quốc – Huế.

Sau 2 năm tham học tại đất thần kinh qua đi, năm 1949 Ngài trở về Liên Hải Phật học đường tiếp tục tu học, và tại giới đàn do Phật học đường tổ chức ngài đăng đàn thọ cụ túc giới do Cố Đại Lão Hoà thượng Thượng Liễu Hạ Thiền đương vi đàn đầu Hoà thượng truyền trao giới pháp.

Năm 1951, Phật giáo Việt Nam hoà mình cùng Phật giáo Thế giới, Ngài được Tổng Trị Sự Phật Giáo Việt Nam cử đại diện cho Hội Phật học Nam Việt cùng với 2 ngài Hoà thượng Minh Châu – Đại diện cho Hội Phật Giáo Trung Việt, Hoà Thượng Quảng Độ – Đại diện cho Phật Giáo Bắc Việt đi du học tại Trường Phật Giáo Thế Giới Colombo – Tích Lan, Trường Đại học Quốc Gia KanDy, Tích Lan và Ngài tốt nghiệp Cử nhân năm 1956.

Cuối năm 1956, Hoà thượng nhận được học bổng của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ liên kết với Cơ quan văn hoá Hoa Kỳ tiếp tục xuất ngoại học tại Đại học Yale, một trường Đại học danh tiếng của Mỹ Quốc. Đến năm 1960, Hoà thượng trình luận án tốt nghiệp chuyên ngành nghiên cứu về vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, . . . Đông Nam Á, và được công nhận học vị Tiến Sĩ.

Đây là cả một quá trình mà Ngài đã dày công huân tập, thăng tiến tự thân để góp phần phụng sự đạo pháp – phụng sự chúng sanh sau này.

3.Thời kỳ hành đạo:


* Công Hạnh Hoằng Dương Chánh Pháp:

Công hạnh hoằng dương chánh pháp của Cố Đại Lão Hoà Thượng là dấu son in đậm trong trang sử Phật giáo, dân tộc mà hơn 50 năm ứng thân giữa cõi phàm trần Ngài đã thể hiện trọn vẹn qua từng chức vụ, từng vai trò khác nhau, trong từng lĩnh vực khác nhau nhưng hiện lên rõ nét nhất ngài là một nhà Giáo dục mô phạm, sự nghiệp giáo dục được ngài tâm niệm thực hiện suốt cuộc đời mình.

Năm 1950, Ngài cùng với Cố HT. Thiện Hoà, HT. Quảng Minh, Ngài Huyền Dung, Ngài Trí Huệ thành lập Phật học đường Nam Việt, và Hoà thượng cùng với Cụ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền, thành lập Hội Phật học Nam Việt, Ngài được cử làm Trưởng Ban Hoằng Pháp đầu tiên của Hội. Đến năm 1951, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt ra đời cũng ghi nhận công đức sáng lập của Hoà thượng. Đây là những hội Phật học đầu tiên tại Miền Nam được tổ chức quy cũ, thực hiện công cuộc Chấn Hưng Phật Giáo.

Sau khi được công nhận học vị Tiến sĩ, Hoà thượng trở về Việt Nam tiếp tục công hạnh hoằng dương chánh pháp, với tinh thần “ nhiêu ích hữu tình, lợi lạc quần sanh”, trong giai đoạn 1960 – 1975 ngài được mời giữ chức vụ Cố Vấn cho Ủy ban Văn hoá Châu Á, Giáo sư Đại học Văn Khoa.

Năm 1963, Mùa Pháp Nạn của Phật giáo Việt Nam, Hoà thượng tham gia Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật Giáo trong vai trò Ủy viên Dân Sự thực hiện nhiệm vụ tổ chức nam nữ thanh niên, Sinh viên, học sinh để tranh đấu chống lại bạo quyền nhà Ngô để bảo vệ Phật Pháp, Hoà thượng bị bắt từ đêm 20/08 đến ngày 24/10/1963 mới được về Chùa.

Cuối năm 1963, đầu năm 1964 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài giữ chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Sự ( Văn Hoá – Giáo dục – Xã hội ), ngài sáng lập và xây dựng hệ thống Trường Bồ Đề trên cả nước và giữ nhiệm vụ Hiệu Trưởng Giám Đốc Trung học Bồ Đề Sài Gòn – Chợ Lớn ( nay là Trường Đồng Khởi )

Năm 1965, Đại Lão Hoà thượng đại diện GHPGVNTN tham dự Đại hội thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới tại Colombo ( Tích Lan ) và được cử làm Ủy viên Giáo dục Phật Giáo Thế Giới. Đến năm 1970 ngài tham dự Hội nghị thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Thế Giới tổ chức tại Hàn Quốc, Hoà thượng được mời giữ chức vụ Ủy viên Giáo dục. Cùng năm đó, Hòa thượng dự Hội nghị Giáo sư tự do Thế giới tại Colombo ( Tích Lan ), và được nhận chứng chỉ Giáo sư Quốc tế.

Với tâm nguyện xây dựng nền hoà bình dân tộc, đem lại an lạc cho đồng bào thân thương, nên năm 1965 Ngài sáng lập được mời giữ chức vụ Chủ tịch Hoà Bình.

Từ năm 1964 đến năm 1975 tròn một thập niên ngài đóng góp nhiều cho sự nghiệp giáo dục trong nhiều vai trò như: Cố vấn Hội Việt Mỹ, Chủ tịch Hội đồng tư thục Việt Nam, Ủy viên Hội đồng cải tổ cập nhật hoá chương trình giáo dục, Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Giáo thọ sư tại các Giảng đường Phật học.

Sau năm 1975, vì tuổi cao sức yếu ngài lui về an trú tại Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức và tiếp tục công hạnh của mình bằng việc trước tác, biên phiên dịch tam tạng kinh điển, hoằng truyền giáo pháp Thích tôn, trong giai đoạn này Ngài được cung thỉnh Chứng Minh Ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM, Chứng minh Ban Đại Diện Phật Giáo Quận Thủ Đức, Quận 2, Quận 9.

Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003 là giai đoạn mà Ngài thực hiện những chuyến hành hương, chiêm bái, và hoằng pháp tại các nước Châu Á, Châu Âu. Đây là thời điểm mà pháp âm của Ngài đồng vọng trên khắp năm Châu.

* Công đức khai sơn tạo tự – Tiếp Tăng độ chúng – Truyền trao giới pháp:

Với bản hoài của Người xuất gia, suốt hơn 70 năm tu học và hành đạo ngài đã thực hiện thành tựu công đức khai sơn tạo tự, tiếp Tăng độ Chúng – Truyền trao giới pháp.

Năm 1962, Ngài về đất Thủ Đức khai sơn Chùa Liên Hải làm noi để tịnh tu.

Năm 1967 ngài khai sơn Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức làm cơ sở đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp, trãi qua nhiều giai đoạn trùng tu đến nay Tổ Đình là ngôi Tam Bảo trang nghiêm, là thắng tích được Tăng, Ni, Phật tử trong ngoài nước biết đến.

Dù nhiều Phật sự, tuổi cao sức yếu nhưng ngài không bao giờ xao lãng việc trùng hưng các ngôi Tam bảo như: Trùng tu Chùa Quảng Đạt – Phú Yên, khai sơn Tịnh Xá Quảng Liên, trùng tu các Tự viện trực thuộc Tổ Đình. Đặc biệt là góp phần trùng tu, xây dựng Chốn Tổ Trà Cú, Chùa Hoa Yên, Thắng Tích Yên Tử.

Một trong những phật sự mà Hoà thượng thực hiện thành tựu đó là phật hoá gia đình, trong đó tiếp độ 2 Anh là HT. Chơn Ngộ, TT. Chơn Điển xuất gia cùng các cháu tiếp bước con đường của ngài phụng sự Tam bảo, hoá độ chúng sanh.

Đức độ của Ngài lan toả mười phương, Đại Lão Hoà thượng là vị ân sư, y chỉ sư của hơn 200 tăng ni đang là những sứ giả Như Lai trong và ngoài nước, là vị Thầy khả kính của hàng ngàn Phật tử luôn tâm niệm nương đức hạnh của Ngài để tu học, cần cầu giải thoát. Ngài còn chăm lo đến mầm non của Đạo Pháp bằng tất cả đức từ, Hòa thượng dang rộng vòng tay, thương yêu, chở che cho áo lam Gia Đình Phật Tử Việt Nam nương Tổ Đình tu học.

Năm 1971, nhân lễ Khánh thành Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức, Ngài đã kiến đàn truyền trao giới pháp cho hàng xuất gia, tại giới đàn này Cố Đại Lão Hòa thượng thượng Trí hạ Thủ được cung thỉnh làm đàn đầu Hòa thượng.

Với giới châu minh tịnh, nghiêm túc oai nghi, thanh cao tăng tướng đạo phong, Đại Lão Hoà Thượng được cung thỉnh làm giới sư truyền Đại Giới, Bồ Tát giới tại giới đàn Hàn Quốc năm 1971. Năm 1996, Ngài Đại vì Hoà thượng Đàn đầu truyền trao giới pháp cho các giới tử tại Đại Giới Đàn Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ngài còn là đương vi Đàn Đầu Hoà Thượng tại các giới đàn phương trượng ở các chốn Tổ Già Lam và các Trú xứ, hàng ngàn giới tử đắc giới thể và nương Ngài tấn tu đạo nghiệp.

* Công đức Biên phiên dịch tam tạng kinh điển:

Biên phiên dịch Tam Tạng Kinh điển là Phật sự mà suốt cuộc đời Ngài lưu tâm, thực hiện góp phần lưu truyền chánh pháp, với các tác phẩm:

-Kinh Dược Sư

-Kinh Viên Giác

-Kinh Nhật Tụng ( Nghĩa )

-Kinh Vu Lan – Báo Hiếu

-Tu bát quan trai giới

-Đại Thừa Khởi Tín Luận

-Phật Giáo hiện đại

-Tư tưởng Phật giáo

-Bổn phận người Phật tử

-Hai bài thuyết pháp Phật giáo Anh Việt

-Phật Giáo và triết học Tây Phương

-Sử cương triết học Ấn Độ

-Duy thức học

-Trung Quán Luận


Ngoài ra hiện nay còn nhiều tác phẩm, nhiều công trình chưa xuất bản đã nói lên công hạnh của Ngài đối với Đạo Pháp – Dân tộc.

  1. Những ngày tháng cuối cùng:


Theo định luật vô thường, thân tứ đại của Ngài theo ngày tháng cũng bị chi phối, pháp thể khiếm an vì bệnh duyên, tuổi cao sức yếu nhưng Hoà thượng vẫn an nhiên, hoan hỷ sách tấn thất chúng đệ tử tu học, tiếp tục con đường của Ngài.


Vào ngày 19 tháng 03 năm Kỷ Sửu Hoà thượng mộng thấy Trời Đế Thích cung thỉnh ngài thuyết pháp, sau đó ngày 20/03 Hoà thượng nhuốm bệnh và phải nhập viện vì tứ đại khiếm an. Sau thời gian điều trị, Hoà thượng nhận biết cơ duyên hóa độ nơi cõi Ta bà sắp mãn, Ngài dạy chúng đệ tử đưa ngài về Tu Viện để tịnh dưỡng.

Tối ngày 23/03 Hoà thượng phó chúc Phật sự, khuyến tấn tu trì đệ tử xuất gia. Sau đó ngài dạy thất chúng đồng nhiếp tâm niệm phật, và kể từ lúc 00h00 ngày 24/03 ngài không dùng thuốc, không thở bằng bình oxy, nhiếp tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tịnh Độ.

Thuận thế vô thường, Đức Đại Lão Hòa thượng an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 12h15 ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu ( nhằm ngày 28 tháng 05 năm 2009 ) trụ thế 84 năm, hạ lạp 60 năm.

Khép lại 84 năm hiện hữu cõi Ta Bà, 70 năm tu học, hoằng dương chánh pháp Đại Lão Hoà thượng Thượng Quảng Hạ Liên ghi đậm dấu son trong lịch sử Phật giáo, dân tộc với hình ảnh của nhà Giáo dục mô phạm, vị Pháp sư tinh thông nội ngoại điển, Thạch trụ giữa thiền môn, là cội bồ đề cao cả, là bóng mát che chở đàn hậu tấn.

Vẫn biết rằng ngôn ngữ thế gian không thể chuyển tải hết công hạnh và đức độ của ngài, nhưng chúng con xin ghi lại đây đôi dòng tiểu sử như nén tâm hương thành kính dâng lên Giác Linh Đại lão Hoà thượng Tân viên tịch với tất cả lòng cung kính, tri ân.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Ngũ Thế, Khai Kiến Quảng Đức Tu Viện Tổ Đình, huý Thượng QUẢNG Hạ LIÊN, Tự BI HOA, Hiệu TRÍ HẢI, Nguyễn Công Đại Lão Hoà thượng Giác linh thuỳ từ chứng giám.


htthichquanglien



Cung Tiển Giác Linh

Xin đại diện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu gồm Úc châu, Âu châu, Hoa Kỳ và Canada nhất tâm nguyện cầu giác linh:

Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Liên
nguyên Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề Sài Gòn trước năm 1975
Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức - Thủ Đức

Là Bổn Sư của Hòa Thượng Thích Chơn Thành, Viện Chủ Chùa Liên Hoa, Garden Grove, CA, USA và Hòa Thượng Thích Chơn Minh.

Sanh năm Bính Dần ( 1926 )
Vãng sanh ngày
28 tháng 05 năm 2009tại Việt Nam
trụ thế 84 năm, Hạ lạp 60 năm


được cao đăng Phật quốc và sớm hội nhập Ta Bà để phổ độ chúng sanh.

Xin chia xẻ những hiện tượng sanh diệt của thế gian và cầu nguyện cho Hòa Thượng Thích Chơn Thành cũng như Hòa Thượng Thích Chơn Minh có đầy đủ dũng lực để hướng về cõi vô sanh của Hòa Thượng Bổn Sư.

Kính nguyện

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

TM. Hội Đồng Điều Hợp

GHPGVNTN Liên Châu


Hòa Thượng Thích Minh Tâm

Chánh văn phòng

Hình ảnh Tang lễ

DSC_7347 (177)
(xem tiếp)

----o0o---


Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 4533)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4492)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4423)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10318)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5159)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 5977)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6514)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7816)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9013)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14488)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567