Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Hoàng Thu

10/04/201311:21(Xem: 6944)
Hòa Thượng Thích Hoàng Thu

tt-thichhoangthu_final2


(xem lớn hơn)

ThànhKính Tưởng Niệm
CỐ THƯỢNG TOẠ THÍCH HOÀNG THU
(1937-2008)

THÂN THẾ.

Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.

2. XUẤT GIA TU HỌC

Thượng Toạ được sinh ra trong một gia đình thuần nông chất phát, với truyền thống đời đời kính tin Tam Bảo. Lên 10 tuổi, Ngài đã quy hướng về Tam Bảo thọ nhận Tam Quy, Ngũ Giới với Hoà Thượng thượng Hải hạ Hoà hiệu Bảo Ðàn tại chùa Phú Phong thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh. Dường như sẵn có túc duyên nên năm 17 tuổi, được sự cho phép của song thân, Ngài phát đại tâm xuất gia tu học với Hoà Thượng Bổn Sư.

Kể từ đó, Phật pháp có thêm một trang xuất trần thượng sĩ, một người hành đạo độ nhơn. Thượng Toạ sớm hôm kinh kệ tu thân, nuôi chí lớn lập thân hoá đạo. Trí vô sư ngày càng tăng trưởng để truyền ấn tổ đời đời.

Thật là:

Tuổi thơ nhập đạo

Chí lớn xuất trần

Tánh đồng chơn cắt ái từ thân

Lòng chánh tín xuất gia đầu Phật

Thế cho nên

Người đạo siêu một cõi

Pháp để lại muôn đời

Ðèn thiền thắp sáng mọi nơi

Aán Tổ tô son muôn thuở

Năm 1957 Thầy thọ Sa Di. Giới đàn được tổ chức tại Phật Học Viện Nha Trang do cố Hoà Thượng pháp hiệu Giác Nhiên làm đàn đầu.

Năm 1973 với hạnh nguyện thượng cầu hạ hóa đầy đủ oai nghi, xứng đáng làm pháp khí Ðại thừa. Ngài được Bổn Sư cho phép thọ Tỳ Kheo và bồ Tát giới tại giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại Phật học viện Hải Ðức- Thành Phố Nha Trang do cố Hoà Thượng Thích Phúc Hộ làm Ðàn đầu.

Năm 1988 Ngài đã cầu Pháp với cố Hoà Thượng Thích Chách Kỷ tại chùa Thái Bình – thôn Bình Khánh – xã Diên Hoà – huyện Diên Khánh được Hoà Thượng ban cho Pháp hiệu Như Nguyện với bài kệ đắc Pháp:

Không trung nhựt tăng quang

Tâm tợ Bồ Ðề cảnh

Như pháp tấn tu hành

Nguyện thành Phật độ sanh.

Sau khi thọ giới và cầu pháp, sự tu học của Thượng Toạ càng tinh chuyên hơn.

Từ 1964 – 1966 Ngài đã nương vào cố Hoà Thượng Thích Hưng Từ cùng với chư Tăng tùng chúng tu học các trường hạ và các nơi như: Chùa Thiên Lộc, Nghĩa Trủng, Thiên Quang, Liên Hoa, Hoa Quang ở Vĩnh Xương. Chùa Thiên Bửu ở Ninh Hoà. Chùa Linh Sơn ở Vạn Ninh. Chùa Khánh Long ở Ba Ngòi………

HÀNH ÐẠO

Năm 1963, phong trào tranh đấu Phật giáo chống chinh quyền kỳ thị Ngô Ðình Diệm diễn ra ở khắp mọi nơi trên đất nước. Thượng Toạ được tỉnh Giáo hội đề cử lên Ðăclăk cùng vời một số quý thầy, hướng dẫn Phật tử đấu tranh vì sự tự do và công bằng cho tín ngưỡng Phật giáo.

Năm 1967 Giáo hội Tăng Già Diên Khánh đề cử Thượng Toạ về trụ trì chùa Long Quang, thôn Phú Hậu huyện Diên Khánh. Ngài hành đạo ở đây được một năm.

Năm 1968, thể theo nhu cầu tu học của Phật tử địa phương thôn 3 xã Diên Phú huyện Diên Khánh. Thượng Toạ được Giáo hội đưa về trụ trì Tổ đình Thiên Phước cho đến ngày nay.

Với bản tánh binh dị, chất phát, Ngài đã sống chan hoà với quần chúng nhân dân Phật tử tại địa phương. Tạo được niềm tin và lòng quy hướng về Tam Bảo với tất cả những ai có duyên được Ngài hoá độ.

Năm 1996, Ðể cầu nguyện cho quốc thái dân an, âm siêu dương thới. Thượng Tọa phát nguyện tổ chức trai đàn kỳ siêu bạt độ, khiến cho người người thêm tin tưởng pháp Phật nhiệm mầu mà tăng trưởng niềm tin Chánh pháp.

Vào ngày 16/4/1997 (10/3/Ðinh Sửu) nhận thấy ngôi Tổ đình trãi qua nhiều năm tháng nên xuống cấp trầm trọng và nhu cầu tu học của quần chúng Phật tử ngày càng đông hơn. Nên Thượng Tọa phát quảng đại nguyện trùng tu ngôi Già lam phạm vũ khang trang và oai nghiêm giữa một vùng quê an hoà bình lặng. Lễ đặt đá trùng tu có sự chứng minh của cố Hoà Thương Thích Trí Nghiêm.

Sống giữa dân quê còn nghèo nàn, quần chúng Phật tử còn lo nhiều cho cuộc mưu sinh. Một mình Ngài đã cưu mang tâm nguyện trùng tu. Không quản nắng mưa khổ nhọc. Chỉ mong sao ngôi Phạm vũ sớm hoàn thiện viên mãn. Tam Bảo không phụ tầm lòng thành. ngôi Già lam uy nghi tráng lệ vũng vàng toạ lạc giữa thôn 3 xã Diên Phú hôm nay là thành quả của biết bao ngày tháng lao tâm khổ tứ của Ngài.

p_0020

(xem tiếp)

THUẬN THẾ VÔ THƯỜNG

Vào năm 2006 Sau khi vào khám tại bệnh viện Hoà Hảo- Sài Gòn phát hiện Ngài đang mang trọng bệnh. Suốt 2 năm liền chữa trị Ðông Tây y và bệnh tình cũng có thời gian thuyên giảm. Ngày qua ngày, sức khoẻ của Thượng Tọa kém dần theo cơn bạo bệnh. Thế nhưng với tinh thần “sanh tử nhàn nhi dĩ” Ngài vẫn tích cực sinh hoạt Phật sự. Sống gần gủi chan hoà với chư Tăng. Thời gian gần đây, bệnh tình lại tái phát nặng hơn. Ngài được các bác sĩ Bệnh viện đa khoa Khánh Hoà tận tâm cứu chữa. Nhưng ngặt vì Thượng Toạ tuổi cao sức yếu nên lực bất tòng tâm,như người xưa có câu:

Bầu thuốc Thánh sao chữa được người hết số

Chén linh đơn sao chữa dược bệnh nan y.

Biết được huyễn thân khó trụ cõi Ta bà. Thượng Toạ đã xin rời bệnh viện trở về chùa để chuyên tâm chuẩn bị ngày Tịch diệt. Trước sự lo âu của môn đồ tứ chúng, Ngài vẫn điềm nhiên họp Môn phong Phật tử viết chúc thư, dặn dò mọi sự, khuyến tấn tu hành.

Thế rồi, vào một đêm tỉnh lặng ngày 26 tháng 8 năm Mậu Ty,ù Thượng Tọa đã an nhiên thuận thế vô thường thâu thần tịch diệt tại ngôi Tổ đình Thiên Phước – thôn 3 – xã Diên Phú – huyện Diên Khánh – Khánh Hòa. Trụ thế 72 năm, 55 năm nhập đạo và đã trãi qua 35 mùa An cư kiết hạ.

Ngôi già lam huy hoàng trầm mặc. Hàng Pháp lữ tâm niệm tiễn đưa. Môn đồ hiếu quyến xót thương. Chư Phật giáng lâm tiếp độ.

Thế là trần gian lặng bóng

Thánh cảnh an thần

Tuy biết rằng sắc tức thị không

Nhưng xót nỗi nào sanh nào diệt

Vậy là từ đây

Quê hương ải Bắc nhạn bay về

Yến tổ gành Nam nhớ mọi bề

Thầy nay quảy dép về bảo sở

Tham vấn mai chiều biết hỏi ai?

Thượng Tọa đã vĩnh viễn ra đi bỏ lại các pháp hữu vi giả tạm của cuộc đời. Nhưng đối với chúng con. Ngài vẫn còn sống mãi trong tâm tư của những người con Phật trong ý nghĩa pháp giới vô biên, viên dung vô ngại qua những kiếp lai sinh của trần thế cho đến khi chứng quả Bồ Ðề.

NAM MÔ THIÊN PHƯỚC ÐƯỜNG THƯỢNG TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NHẤT THẾ HUÝ thượng THANH hạ PHONG TỰ HOÀNG THU HIỆU NHƯ NGUYỆN A XÀ LÊ CHI GIÁC LINH.

----o0o---

Trình bày: Tâm Nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8431)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8507)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10191)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14107)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8265)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16889)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11890)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16607)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12748)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6835)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]